Võ Phiến
![]() |
Thời tiền chiến, người viết trào phúng bằng văn vần xuất sắc nhất của chúng ta là Tú Mỡ. Tú Mỡ nổi bật hẳn lên, lấn át tất cả, đến nỗi nói đến thơ trào phúng bấy giờ cơ hồ ai nấy chỉ nghĩ đến Tú Mỡ như người duy nhất.
Người ấy đã sang phía bên kia từ mấy mươi năm nay. Thế mà tiếng cười không cùng sang với người ấy.
Mặc dầu tiếng cười hay lôi cuốn kẻ xung quanh, bao nhiêu năm vẫn chỉ có Tú Mỡ tiếp tục cười, gần như một mình. Nhà nước có cổ võ, nhưng không có ai phụ họa.
Biết thế, là căn cứ vào Tạp Chí Văn Học của Hà Nội số tháng 9-1965, đăng bài “Phỏng vấn một số nhà văn”, phỏng vấn Tú Mỡ là một số cán bộ nghiên cứu trong tổ nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam của Viện Văn học. Trong các câu hỏi đặt ra cho Tú Mỡ, có câu: “Có người cho rằng trong phong trào chống Mỹ sôi nổi hiện nay, thơ trào phúng có phần thưa thớt với các loại thơ văn khác.” Lại có câu: “Có người ngại rằng thơ trào phúng sẽ sút kém khi nhà thơ Tú Mỡ trăm tuổi”. Dù dè dặt, khéo léo, các cán bộ nghiên cứu vẫn tiết lộ cho thấy văn học ngoài Bắc đang thiếu tiếng cười, và Tú Mỡ tuy già nua héo hắt vẫn là kẻ “tươi” nhất nước một mình; một mai mà ông cụ ấy đi đời thì cả xứ sẽ tối sầm.[1]
“Có người cho rằng…”, “có người ngại rằng…”, cái “người” ấy không thể là một ông A, ông B nào đó. Không phải ai cũng được phép lo ngại những điều bi quan như thế. Ấy có lẽ nhận định của Tổ Nghiên Cứu Văn Học Hiện Ðại, hay là của Viện Văn Học cũng nên, tức một nhận định chính thức của giới hữu quyền.
Sự tiết lộ của cán bộ Tổ Nghiên Cứu được xác nhận bằng tác phong, ngôn ngữ của những người từ Bắc mới vào Nam, bằng các tác phẩm văn nghệ miền Bắc.
Nam Hải, tác giả truyện Trời Phương Bắc hiện đang đăng trên Tiền Tuyến, theo lời Thi Thạch là một thanh niên hồi 1954 mới vừa tới tuổi học mẫu giáo. Như vậy hiện nay anh chừng hăm mốt, hăm hai. Thi Thạch cũng là người miền Bắc, tuy có hơn Nam Hải mấy tuổi nhưng cũng thuộc một lớp trẻ, hai bên suýt soát nhau. Thế mà Thi Thạch lấy làm bỡ ngỡ trước ngôn ngữ của Nam Hải:
Hỏi anh:
– Anh viết vào lúc nào?Anh trả lời:
– Thường thường, tôi “tranh thủ” vào buổi trưa.Và, sau câu chuyện, anh lễ phép kết luận:
– Tôi xin “tiếp thu” ý kiến của anh.[2]
Nam Hải lọt lòng ra trong chế độ, còn Xuân Diệu chẳng hạn thì được chế độ tái sinh. Xuân Diệu cũng nói tiếng nói mới, nghe cũng ngộ nghĩnh lắm: “Lần đi thực tế vừa qua, đòi “thâm nhập” ngành bưu điện…” “…có hai người bấm đèn pin đến tìm tôi: Anh em đang chờ anh đến phục vụ thơ.” “Tôi đi hai tháng về khu 4, về thì một người em đã đi “ba sẵn sàng” rồi, vào bộ đội cao xạ pháo bắn máy bay Mỹ…”[3]. Giả sử một thi sĩ khác cùng là người Bắc, cùng lứa tuổi với Xuân Diệu, là Vũ Hoàng Chương chẳng hạn, mà tình cờ có dịp tiếp chuyện với Xuân Diệu thì cảm tưởng của ông Vũ chắc chắn cũng không khác Thi Thạch.
Cảm tưởng ấy là: “ngôn ngữ hình như cũng biến dạng”[4].
Ngôn ngữ vẫn là một hình thức phản ảnh tâm hồn. Ngôn ngữ ở miền Bắc đã thay đổi theo một chiều hướng khác với ở miền Nam như thế, tâm hồn con người hai nơi tất nhiên cũng dần dần xa cách nhau.
Nhưng tâm hồn là cái gì rắc rối, phức tạp không hy vọng tìm hiểu toàn diện một cách nhanh chóng, dễ dàng. Thôi thì hãy tạm ngắm nghía qua loa phong thái con người ngoài Bắc gần đây: phong thái cũng phản ảnh tâm hồn nữa. Bắt gặp nhiều phản ảnh, có thể có một ý niệm tâm hồn.
Thi Thạch mô tả Nam Hải: “Nam Hải có vẻ trầm tĩnh, chịu khó, và lúc nào cũng như sẵn sàng chấp nhận sự ghép mình trong kỷ luật”[5].
Cái nhìn chăm sóc thân thiện của Thi Thạch đã phơi bày khía cạnh đẹp đẽ của phong thái nọ. Một cái nhìn – cái nhìn của Như Mai đối với Nghiêm Văn Túc (trưởng ban nội quy của nông trường tập thể Con Én)[6], cái nhìn của Trần Lê Văn đối với Lê Hùng Tiến (tức Nguyễn Vinh Hoa) – lại phơi bày một khía cạnh khác, của phong thái ấy.
Trần Lê Văn mô tả Lê Hùng Tiến: “Người anh khô đét lại, thẳng đờ như một cái áo quan, mắt chỉ biết trợn chứ không biết nhìn, mặt tái đi vì luôn luôn giận dữ với các loại khuyết điểm trên đời, hai hàm răng xít lại, dầu có cạy cũng chẳng ra một nụ cười”[7].
A, nụ cười! Cái chủ điểm của chúng ta, lại gặp nó đây rồi! Về vấn đề này, Trần Lê Văn đề cập đến nhiều lần: “Trước anh cũng có những lúc vui tính và biết cười to như mọi người. Nhưng khi cảm thấy mình quan trọng quá rồi thì anh cười càng ngày càng ít đi. Khi chào ai thì anh chỉ vừa kịp nhếch nửa cái mép lại đóng lại ngay. Ðây cũng là một cách áp dụng bốn chữ “thái độ nghiêm túc”…“Ðồng chí ấy nói đùa anh cũng vâng vâng dạ dạ vì lâu ngày anh quên cả nói đùa”.
Nghe nói Trần Lê Văn là cháu Trần Kế Xương. Nếu ở đất Bắc quả đang xảy ra vụ mất nụ cười, thì kẻ được chỉ định đứng ra lập biên bản vi bằng thật đã khéo chọn lựa.
“Kỷ luật”, “nội quy”, “nghiêm túc”, là những cái tiêu biểu của một nếp sinh hoạt. Nó khắc khổ.
“Tranh thủ”, “đi thực tế”, “đi ba sẵn sàng” v.v. là những tiêu biểu của một thứ ngôn ngữ. Nó theo sát các khẩu hiệu, nó rập khuôn các chỉ thị công tác chính trị.
“Chẳng ra một nụ cười”, “quên cả nói đùa”… là tiêu biểu của một trạng thái tâm hồn, một nét tính tình. Nó khô khan, cằn cỗi. Cái đặc điểm trong đời sống tinh thần của miền Bắc đã khiến cho trong cả một thế hệ trẻ tuổi “người người lớp lớp” không tìm ra một anh nào nghịch ngợm tinh quái bằng ông cụ già Tú Mỡ.
Sự nhận định của Viện Văn Học không phải vô căn cứ, mối lo ngại của Viện không phải vu vơ, hiện tượng thiếu cười ở ngoài Bắc không phải là điều ngẫu nhiên.
Cái vui hồng
Bắc Việt không phải là xứ Cộng sản nghiêm túc duy nhất. Ðể ý sách báo các nước Cộng sản khác, đặc biệt là hai nước đàn anh gương mẫu Hoa-Nga, người ta cũng gặp trường hợp tương tự.
Nghiên cứu về văn học Trung Quốc hiện đại, ông Nguyễn Hiến Lê nhận thấy tại lục địa, dưới quyền Mao Trạch Ðông, cách thức viết của nhà báo bị bó buộc theo một chiều hướng không thuận lợi cho thể trào phúng. “Hài kịch cũng không được hoan nghênh lắm. Vì châm biếm ai bây giờ trong cái thời kiến thiết này? Nông, công, binh tất nhiên cũng còn ít nhiều tật nhỏ đấy. Nhưng nhà văn phải thân ái sửa sai hướng dẫn họ chứ sao lại châm biếm? Ðời là một cuộc chiến đấu, mà chiến đấu thì phải nghiêm trọng chớ không được bông lơn. Còn như bọn phong kiến, tư sản, nếu có kẻ nào muốn phản động thì phải đả cho mạnh, phải diệt cho hết chứ đâu có đáng để châm biếm”[9].
Ông Nguyễn chỉ nói đến hài kịch. Nhưng theo lý luận của ông thì cái hài tại Hoa lục nó không chỉ thiếu ở kịch, có thể không bộ môn văn nghệ nào không thiếu nó: “Châm biếm ai bây giờ?” Vả lại trong các tác giả và tác phẩm của Hoa lục sau 1949 mà ông giới thiệu không thấy có nụ cười.
Về Nga-sô, André Pierre nói: “Ðiều mà du khách để ý trước tiên ở xứ này, là dân ở đây có vẻ như không mấy khi cười. Người nhân viên quan thuế tiếp đón ta, người sĩ quan NKVD (bộ nội vụ và an ninh) kiểm soát giấy thông hành của ta, người Militzioner (cảnh sát viên) điều hành sự lưu thông hay cô gái của cơ quan du lịch hướng dẫn ta thăm viếng các lâu đài, tất cả những người ấy đều khiến ta chú ý đến một đặc điểm chung: là vẻ nghiêm túc.
Cảm tưởng hời hợt chăng? Ðúng và sai. Sai – bởi vì khi lưu trú lâu ngày, du khách sẽ được biết rằng ở Nga-sô nếu người ta có bật cười lúc đọc tờ báo nào đó, lúc đi xem hát, đi xi-nê hay xem xiếc, thì thường thường tiếng cười ấy được tổ chức, chỉ huy, hướng dẫn. Như thế người ta cười có nhịp, có nhàng, và kẻ cầm trịch đánh nhịp là nhà nước”[10].
Trong cuộc sống, người Sô-Viết nghiêm túc. Trong văn chương cũng thế, mở các tờ báo Pravda, Izvestia, Troud v.v. ra, không thể tìm thấy tranh vui, truyện vui, không thấy “anh Tám Xạc-ne”, “Bức tranh vân cẩu”, “Phú-de Giao Chỉ” v.v. Những tờ báo như thế không phải là để giải trí, cũng không phản ảnh các sinh hoạt muôn mặt của cuộc sống thường nhật, không gợi lên cái không khí những buổi họp mặt tán gẫu tùm lum như phần nhiều nhật báo ở xã hội chúng ta. Không. Những tờ báo như thế luôn luôn đứng đắn, chững chạc: toàn những bình luận, diễn từ, tài liệu, chỉ thị v.v. Tờ báo là phương tiện nghiên cứu học tập, không phải là chỗ đùa giỡn. Chúng ta nhớ đến một nét lý thú của xã hội phong kiến ngày xưa: các cụ đọc sách phải ăn mặc chỉnh tề, ngồi ngay ngắn.
Nhưng người nghiêm túc cũng có lần phải cười, theo kế hoạch nhà nước. Bấy giờ người ấy đọc tờ Krokodil. Ðây là khu vực dành riêng cho tiếng cười. (Quái. Cười là đặc điểm của loài người, các giống vật đâu biết đến. Vậy mà có nhiều tờ báo trào phúng mang tên loài vật: Con Ong, Con Cá Sấu, Con Vịt Bị Xích v.v.)
Tờ Krokodil chuyên pha trò. Và pha trò là một nhiệm vụ cũng phải chu toàn một cách nghiêm chỉnh, đúng phép tắc, đúng đường lối. Dĩ nhiên, mọi sự sa sẩy đều phải trả giá khá đắt. Trước kia, cây bút trào phúng xuất sắc của Nga là Michel Zochtchenko, có lần đã bông lơn quá trớn, vấp một lỗi lầm. Trời ơi, lần ấy M. Zochtchenko bị một phen khiếp vía. André Idanov thay mặt Trung ương Ðảng mắng nhiếc là “đồ du côn văn nghệ”, là “quân vô nguyên tắc táng tận lương tâm”. Ðảng nói dứt khoát: “Y phải biến cải tâm hồn ngay, nếu không thế thì y cứ việc cút ra khỏi lãnh vực văn học Sô-Viết”[11].
Trước khi tai họa xảy đến cho M. Zochtchenko, ai nấy hoảng hồn. Những kẻ bị bắt buộc làm công việc pha trò, phải pha trò trong tâm trạng nơm nớp, đâm mất cả hứng thú, càng ngày càng vô duyên lạt lẽo. Thấy thế, kẻ cầm trịch lại vỗ về, an ủi. Ngày 20.2.1948, trên tờ Krokodil có lời trấn an: “Không! Chúng tôi đâu có phản đối tiếng cười, nhưng cần phải thận trọng trong khi cười cợt (…) Còn mỉm cười thì sao? Vâng, người ta rất có thể mỉm cười, nhưng cũng cần phải có chừng mực…”
Ðó là đường lối cười và đường lối mỉm cười được ấn định tại một xứ sở nơi con người được hoàn toàn giải phóng.
Ở các nước Ðông Âu theo chế độ Cộng Sản, tình trạng đại khái cũng không khác mấy.“Trước chiến tranh, dân Ba Lan, Hung Gia Lợi thuộc vào số những dân tộc hóm hỉnh nhất Âu châu. Ngày nay bầu không khí trở nên nặng nề và chủ nghĩa Cộng Sản vốn không đề huề với sự mỉa mai, đã đem vào tất cả các nước Âu châu ấy cái đạo mạo và cái nghiêm cách của nó, nó kiểm duyệt ráo trọi, kiểm duyệt đến cả những bài hát của hạng hát rong”[12].
Phải chăng người Cộng Sản cũng nhằm một nền văn học nết na, như ông cha chúng ta ngày xưa? “Chủ nghĩa Cộng Sản không đề huề với sự mỉa mai”, biết “châm biếm ai bây giờ” v.v. như thế phải chăng người Cộng Sản đố kỵ tiếng cười?
Không phải vậy. Cộng Sản lúc nào cũng lăm lăm đấu tranh, mà tiếng cười là một khí giới. Khí giới là một cám dỗ khó cầm lòng đối với người Cộng Sản. Cho nên không hề có chuyện Cộng Sản chê trào phúng.
Trả lời cuộc phỏng vấn của Tạp chí Văn Học, Tú Mỡ nói đến “đội ngũ trào phúng” ở miền Bắc. Xưa nay trong lịch sử chưa từng có xã hội nào đem hề tổ chức thành đội ngũ. Ðội ngũ ấy sa sút, nhà nước lo lắng ra mặt.
Và xưa nay có chế độ nào mà trào đình đặt ra hẳn một cơ quan ngôn luận, cho ra hẳn một tờ báo chuyên về bông lơn? Krokodil không phải là một công báo sao? Hơn nữa, có lần tờ Literatournia Gazeta còn đề nghị thành lập một đại học đường riêng về hài hước.
Như vậy, trong xã hội bên kia, nhà nước có cù dân. Chẳng qua dưới chế độ hồng, nụ cười hóa xám xịt. Ðiều đó ở ngoài dự liệu.
─────────────
Ghi chú:
[1] Tú Mỡ đã chết năm 1976.
[2] “Tạp ghi”. Tiền Tuyến. Năm 1969.
[3] Thơ Với Cuộc Sống, Thơ Với Thực Tế – Tạp Chí Văn Học (Hà Nội) số 9.1965.
[4] “Tạp ghi”. Tiền Tuyến. Năm 1969.
[5] “Tạp ghi”. Tiền Tuyến. Năm 1969.
[6] Thi Sĩ Máy của Châm văn Biếm, Nhân Văn số 5.
[7, 8] Bức Thư Gởi Một Người Bạn Cũ, Giai Phẩm Mùa Thu, tập 1.
[9] Nguyễn Hiến Lê, Văn Học Trung Quốc Hiện Đại 1898-1960 cuốn 2, nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê 1969, trang 131, 132.
[10] Pierre Daninos, Le Tour du Monde du Rire, Hachette 1953, trang 134.
[11] Sđd, trang 140.
[12] Sđd, trang 148.