Giai cấp

Tiểu thuyết của Sơn Khanh

I

Sơn Khanh
(Nguyễn Văn Lộc - 1968)

LONG đặt rương xuống gạch, chờ anh đánh xe ngựa mang chiếc chiếu và cây đàn Banjoline của chàng vào nhà.

Chàng uể oải trả tiền xe, rồi nhìn quanh gian phòng tiều tụy, đầy những quệt lọ, những bãi trầu. Gian nhà ấy, khi nãy, quan chủ quận cho là khá nhứt trong dãy phố để dành riêng cho lính ở và, sau một cái cười ngoại giao chiếu lệ, ông đã nhứt định để cho Long.

Long đã hình dung một gian phòng rộng rãi, ấm áp, với mùi vôi mới quét, mùi gạch mới lau để dành cho một thơ ký Nam Kỳ Soái Phủ, khác hẳn với những dãy nhà bẩn thỉu hôi tanh của những người lính lệ. Sự thật, bây giờ Long mới nhận, gian nhà chàng vẫn không hơn được mấy căn phố cũ kỹ của người lính lệ phần nào.

Chàng thở dài. Chàng tin rằng trong đời chàng, không có lúc nào chàng phải giam thân trong những gian nhà như thế.

Long đâm ra oán hận gia đình.

Cái gì phải đi làm thơ ký năm ba mươi bạc để phải bị bổ nhậm ở những tỉnh lỵ cỏn con mà mỗi hành vi đều không đi qua được con mắt của thiên hạ?

Long đã nhiều lần bực tức vì, tuy chưa vào nghề, chàng cũng đoán biết được ít nhiều thế nào là cuộc đời của một thầy ký tỉnh. Cho nên vừa được giấy cho hay chàng đã được trúng tuyến rất cao trong kỳ thi thơ ký Nam Kỳ Soái Phủ vừa rồi, chàng hết sức bực mình.

Và mấy lần chàng kháng cự mạng lịnh gia đình để không đi làm việc, chàng đều phải bị đánh lui.

Người ta cho chàng ngu đần. Vì thi năm bảy trăm mới lấy năm ba chục. Được chấm đỗ cũng là hồng phúc lắm rồi, cớ sao lại buồn rầu từ chối.

Cứ đi làm đi. Rồi cuối năm nay, chàng sẽ giựt được bằng Tú Tài. Rồi với mảnh bằng ấy và bốn năm kinh nghiệm trong nghề, chàng sẽ thi làm Tham Tá, và hơn nữa, chàng sẽ lần lượt thăng quan làm cha mẹ dân.

Cao quí quá!

Sang trọng quá!

Nhưng chánh sách nhồi sọ vinh thân phì da của gia đình chàng chẳng cảm dỗ được lòng chàng.

Cuối cùng người ta phải sang qua chánh sách khủng bố.

Sau khi cha Long long trọng báo cáo:

- Thằng Long đã đỗ thơ ký Nam Kỳ Soái Phủ và được bổ nhiệm ở quận châu thành tỉnh X..... Tưởng cũng là một sự may mắn cho gia đình mình lắm rồi.

Nó lại than phiền về chổ đồng lương ít ỏi, tôi có hứa sẽ phụ thêm cho nó xài mỗi tháng. Sau thì thăng quan tấn tước, bạc tiền danh vọng chẳng thiếu chi. Nhưng nó đã cương ngạnh không chịu đi làm. Nó đã viện lẽ nó hiểu suốt chương trình thi Tú Tài cho nên không phải vào nhà trường học nữa. Nó quả quyết có thể đi thư viện học lấy một mình.

Nhưng gần đây tôi nghe lại thì nó chỉ đi rong, ăn xài xa xỉ. Người ta luôn luôn gặp nó lang thang ngoài phố. Có người nói nó chỉ toan lo viết báo, làm văn.

Nó đã không thương tiếc lấy gia đình, chỉ gây thêm gánh nặng. Cho nên từ nay tôi không muốn cho nó ở trong nhà nầy nữa và tự nó phải lo tìm sống sanh phương.

Nhứt là tôi muốn trong bà con thân quyến, không một ai chứa nó nữa. Thà cho nó đi hoang ngủ quán ăn đình.

Thế là tất cả những cửa trong vòng thân quyến chàng đều khép chặt lại. Long phải đến ở nhờ nhà một người anh với tất cả cái lạnh lùng rẻ rúng mà mật lịnh bề trên đã đưa xuống từ lâu.

Long thua buồn.

Chàng cảm thấy sự ghé lạnh thấm thía của gia đình. Cho nên, một hôm, không ai xúi dục khuyên dỗ chàng, chàng đột nhiên xếp quần áo vào rương lên Saigon để lấy giấy bổ nhậm về tỉnh X.....

Vừa đem rương vào nhà chưa đầy một khắc, hàng xóm ở cùng phố, chú lính lệ có, thầy cai thầy đội có, thầy giáo có, thầy điều dưỡng có, họ hấp tấp lại thăm thầy ký mới. Họ đến thăm không ngoài cái ý nghĩ cầu thân và dòm ngó thân thế thầy ký mới để tán tụng hay chê đùa.

Với ai, Long cũng cười cười nói nói, nhưng bên trong chàng rất ghét cái xã hội xu nịnh ấy chỉ biết giá trị con người qua đồng tiền. Nhứt là chàng rất ghét thái độ khinh khỉnh của mấy người lính thấy chàng không có đồ đạc bàn ghế chi ngoài chiếc rương cây tiều tụy, ngoài chiếc chiếu nhỏ và cây đàn.

Có người muốn cho thầy mượn chiếc ghế bố hay chiếc bàn con. Long không biết thật lòng người ta tử tế với chàng hay người ta làm như thế để thấy lòng mình sung sướng vì đã giàu có hơn Long.

Nhưng đối với những sự niềm nở ấy, Long chỉ lễ phép từ chối. Và Long vui lòng trải chiếu dưới đất ngủ ngon lành hơn là người ta làm tội chàng bằng những lời khuyên lơn giúp đỡ khách sáo.

Khi họ lần lượt về hết, Long mới thấy mình dễ chịu vì đã được thoát thân. Nhưng chính khi chàng nhẹ nhõm ấy, chàng mới cảm thấy nỗi hiu quạnh thấm thía, xâm chiếm tâm hồn chàng.

Chàng thấy nhớ, nhớ tất cả, nhớ anh, nhớ chị, nhớ cháu, nhớ em, và nhứt là nhớ cha, người đã vô tâm đưa chàng vào một cuộc đời mà chàng suốt đời oán ghét.

Muốn quên đi để cố tô điểm cho cuộc đời mới, Long qua nhà bên mượn cây chổi về quét những bã mía dưới gạch và những mạng nhện trên tường.

Thầy đội bên nhà thấy vậy thương tình, cho đứa cháu thầy bên nhà qua quét hộ.

Khi sự vệ sinh tạm gác lại trong phòng, chàng trải chiếc chiếu con ra giữa nhà và lấy dây ra giăng mùng ngủ.

Rõ là cảnh tượng của một cuộc đời trôi nổi.

Cái gì kiêu ngạo bằng, đường đường một vị thơ ký của Nam Kỳ Soái Phủ, lại phải ngủ trên một mảnh chiếu con, trong một chiếc mùng trắng hóa vàng, và với tất cả gối mền, chàng chỉ có một chồng sách cũ.

Chồng sách kê đầu ấy, chàng tin chắc rồi đây, nó sẽ là bạn duy nhứt của chàng nơi chốn xa buồn tẻ nầy.

Trải qua bao nhiêu cảnh vui buồn của đời chàng, chồng sách ấy lúc nào cũng vỗ về, cũng an ủi, cũng trung thành vì nó chỉ là cõi mộng, là những tập thơ hầu hết của những thi sĩ Việt Nam từ khoảng năm 1932 về đây. Có quyển chàng mua, có quyển tác giả vì cảm tình gửi tặng. Nhưng mua hay tặng, nó vẫn là những tâm hồn trong sạch cao siêu và nhứt là không bao giờ phản bội.

Long có dè đâu, chàng đã làm trò cười cho thiên hạ với cách ăn ở quá ư tồi tệ, nó làm mất cả thể thống của một thầy ký, nhứt là một thầy ký trẻ tuổi, đẹp trai.

Ai cũng mến thầy ký hiền hậu dễ thương, ai cũng khen thầy ký bải buôi lịch thiệp. Nhưng ai cũng chế nhạo cách ăn ở nghèo nàn khổ sở của Long.

Người ta càng dị nghị chừng nào, Long lại càng sung sướng chừng ấy vì chàng tự phụ đã thoát được khuôn khổ, coi thường thị phi.

Chàng cũng không cần bày tỏ cho ai biết tình cảnh của chàng. Chàng thấy những ngộ nhận về cuộc đời vật chất đưa kẻ hàng xóm láng giềng xa chàng bao nhiêu, chàng lại thấy mình vui sướng vì đã sống một cuộc đời bên trong phong phú bấy nhiêu.

Chiều chiều ở sở về, tắm rửa xong, Long thường mang đàn ra chơi bờ suối. Đàn chán, chàng xem sách.

Có khi bỏ cả sách, chàng vén quần lội suối, chàng đi vớt rong.

Nước suối trong xanh, đáy suối phơi mình êm ái với những thứ rong xanh, rong đỏ, với những hòn đá nhẵn nhụi, trắng trẻo làm cho chàng mải nhìn, mải vớt quên cả trời chiều đỏ máu sau những rặng cây cao su xanh biếc tận chân trời.

Người ta gọi suối ấy là suối SĂN MÁU chỉ vì nó lấy nguồn ở trong khu rừng hoang đầy những cây săn máu.

Nhưng Long cho tên SĂN MÁU có vẻ hung tợn dữ dằn với một suối xinh xắn như thế, nên thường có nói đến, chàng chỉ gọi nó là suối MƠ.

Bao nhiêu ngày nhọc mệt ở phòng giấy về, chàng chỉ có thể quên bên cạnh suối Mơ.

Suối MƠ reo.

Những cành lá xanh bên dòng suối Mơ hòa nhạc khi gió chiều lên, thường là những lúc chàng nhìn về quê cha với một lòng thương nhớ.

Người ta nói mãi về chàng cũng đâm chán.

Có gì mà một thầy ký ăn mặc rất lịch sự, cử chỉ thanh nhã, tỏ ra là một thanh niên trong giai cấp phong lưu, lại có thể đày thân trong một gian nhà không trang hoàng, không bày biện, trông ủ rũ như một kẻ mẫn thế ưu thời.

Không ai nhìn đâu ra được khúc ẩn tình của Long.

Mà nỗi buồn khổ của Long vẫn có tiếng suối reo, tiếng chim hát, nhứt là tiếng ve sầu một giọng đều đều ảo não trong buổi trưa hè đổ vỗ về, để chia sẻ.

Long lặng lẽ sống, êm đềm và bí ẩn như những ngày mưa bụi bùi ngùi trắng xóa xả vùng cây xanh thẫm ở chân trời.







II

Đêm nay ở sở về, Long nằm dài trên chiếu, mệt nhọc sau một ngày quanh quẩn bôi cạo ở nơi công sở.

Ánh đèn điện trên trần nhà lu mờ quá, không đủ ánh sáng, để cho gian phòng Long đã tiều tụy lại càng có vẻ điêu tàn khổ não hơn.

Bao nhiêu cái chán nản của một cuộc đời cạo giấy chiều nay như đọng hết trong lòng chàng.

Ờ nhỉ! Tại sao cuộc đời đối với chàng lại tối tăm khổ sở thế nầy được?

Tại sao lại phải khòm lưng suốt tháng để được lãnh một số lương không thấm vào đâu?

Tại sao phải đầu lụy kẻ nầy, lòn cúi kẻ kia để rồi vẫn bị nay rầy mai quở?

Tại sao từng cử chỉ nhỏ nhặt của mình lại vẫn phải bị người ta dòm hành để chỉ trích chê bai?

Không! Không thể như thế được!

Người thanh niên đủ tài đức như Long, mà phải làm một người máy, đi có giờ về có khắc, lại phải bị người ta sai khiến, và nhứt là lại phải sống một cuộc đời bẩn chật, không ra hồn ra vía gì.

Đành rằng Long có một tâm hồn nghệ sĩ, không cần gì cái bên ngoài.

Nhưng ở xã hội nầy, có phải ai cũng có một tâm hồn nghệ sĩ để hiểu chàng đâu.

Tư tưởng ấy bắt Long cô đơn, cô đơn giữa một đám người mà chàng bị bắt buộc phải sống bên cạnh.

Long thấy như mình bị lạc trong một cái xã hội không phải là của chàng nên chàng xa lánh tất cả mọi người.

Trừ những lúc ở phòng giấy, chàng phải cười chiếu lệ với người nầy, trả lời khách sáo với kẻ kia. Còn thì những lúc về nhà, cửa chàng vẫn kín.

Vì Long cho rằng chỉ những lúc ấy là chàng mới được dịp sống với chàng.

Cái đời đã nhạt nhẽo vô vị như vậy. Thế mà người ta có để yên cho chàng chịu đựng đâu.

Hình như người ta sợ chàng không có chuyện gì chàng buồn. Nay cần phải kêu chàng lên để phiền chàng quên chào.

- Vì sao?

- Vì, thưa ông, quần tôi dài quá mà ở đây thì chỉ toàn đất đỏ. Không lẽ tôi lại để nó dơ đi một cách vô lý để rồi phải tự mình đi giặt lấy vì có lẽ ông cũng thừa rõ tôi không có bồi bếp.

Vả lại ông cũng nên để cho tôi cử chỉ tự nhiên, để khỏi phải giả vờ sợ sệt ông một cách vô lối như thế. Ông quên rằng chúng ta đang sống ở thời đại nào rồi à?

- Thời đại nào cũng vậy. Thời đại nào thầy không phải dạy tôi, thời đại nào rồi thầy sẽ biết.

Mà Long làm gì biết được.

Làm sao một cậu học trò vừa chân ướt chân ráo bước chân ra đời như Long lại biết được lòng dạ sâu độc của quan chủ quận?

- Ừ! Rồi thầy sẽ biết!

Câu ấy nói văng vẳng mãi bên tai Long.

Nhưng Long vốn đầy một lòng tự ái nào có thấy tất cả những cái rùng rợn xấu xa nó ẩn núp dưới bốn chữ “rồi thầy sẽ biết”.

Long luôn tự nhủ : “Mà biết cái gì mới được chớ? Bất quá cũng đến thôi việc là cùng. Vả lại có lúc nào mình nghĩ đến sự lâu năm trong đời cạo giấy đâu!”

Long nghĩ quanh quẩn mãi về những nỗi bực mình thua thiệt của một thầy ký có khi cả đêm không ngủ.

Chàng chỉ còn có một thượng kế để thoát ly cho êm đẹp quan trường là cố học để đỗ kì thi Tú Tài. Chàng sẽ đi học thêm, rồi sau nầy tìm một nghề tự do, một nghề không làm cha mẹ ai, nhưng lương thiện hơn, và nhứt là không nô lệ.

Đêm nào, Long cũng thức học đến khuya.

Và chủ nhật nào, Long không phải đi đến phiên gát “Bu-rô”, chàng luôn luôn về chơi Saigon. Vì chàng nhận thấy rõ rệt rằng chàng không thể vui đùa tri kỷ được với những người sống bên cạnh chàng, nhưng lúc nào cũng có bức thành kiên cố của Giai Cấp chia rẽ.







III

Long đặt cây đàn xuống cỏ, mắt đăm đăm nhìn tận phương trời xa.

Đây là những giờ chàng trầm ngâm.

Có gì đâu! Trời chiều xanh xanh, mây bạc chồng lên thành núi, vòm cây cao su tím ngắt, con đường đá cong queo, một cây cầu đúc bắc ngang qua ngọn suối Mơ và đôi mái nhà tranh êm đềm bốc khói trong buổi chiều quạnh quẽ.

Một bức tranh thô sơ.

Một buổi chiều vắng lặng.

Có thế thôi. Thế mà Long thấy đẹp, đẹp mê hồn.

Có phải chăng vì lòng chàng đang rộn một nỗi nhớ thương.

Nhớ ai? Thương ai?

Chính chàng cũng không bao giờ biết đặng.

Nhưng hình như Long nhớ thương một cái gì đó xa xôi lắm, đẹp đẽ lắm. Mà cái đó không phải là người, không phải là vật, không phải là những tình cảm thoáng qua. Cái nhớ thương đó rút lại trong hai chữ NHỚ THƯƠNG lạc đến lòng chàng một thế kỉ nào xa xuôi lắm.

Chàng nhớ thương chỉ là để lòng chàng thương nhớ.

Tình? Tiền? Sắc đẹp? Rượu mạnh? Phù du? Danh vọng? Trơ trẽn quá, có gì đủ gợi chàng những nỗi nhớ thương.

Những nỗi buồn mênh mông của không gian rộng, của thời gian dài, của gió đìu hiu, của chiều quạnh quẽ, lúc nào cũng xâm chiếm tâm hồn Long.

Long thở dài nhìn theo dòng nước suối:

“Có lẽ rồi đời mình cũng đến trôi xuôi như dòng suối. Cố va vào đá, cố đụng vào bờ. Đá tuy có hao vài hạt bụi, bờ tuy có lở vài mảnh bùn, những nước vẫn vỡ ra muôn mảnh mà xuôi dòng trôi xuôi.

Có rộng thêm đôi phân nhưng vẫn trong vòng khuôn khổ, có sâu thêm vài tấc, nhưng đất vẫn chận quanh mình.

Nước ơi! Có muốn thoát khỏi dòng thì nên đợi lúc phong ba!”.

Mà phong ba tủi nhục đã nhiều rồi, mà sao Long còn vùi thân được vào giữa bốn bức tường phòng giấy?

Long đang hỏi lòng về những cách thoát ly vòng quan chức thì có tiếng người rón rén bước sau lưng và tiếng cười khúc khích:

- Thi sĩ Bích Sơn đang tìm vần thơ!

Long quay lại, ngạc nhiên vì cái người gọi đích danh hiệu chàng đùa cợt ấy, chàng tuy có biết mặt nhưng chưa quen bao giờ.

Long đang ngáo ngơ vì cái tên mình không bao giờ phô trương chốn nầy lại cũng có người biết.

Long chưa định trả lời ra sao thì người lạ mặt tiếp:

-“Thi sĩ Bích Sơn đang mộng mơ đấy nhỉ?

Long đang bực mình vì lối đừa cợt lố lăng, toan choảng cho một trậnn nên thân. Nhưng người khách vẫn mỉm cười, một nụ cười có duyên trên một khuôn mặt sáng sủa khôn ngoan làm Long tự nhiên trong lòng lại sanh ra một mối thiện cảm. Long vui vẻ đáp:

- Xin lỗi ông ở đâu và làm gì biết được biệt hiệu của tôi?

- Tôi? (người lạ mặt đáp) – Một người cũng như ông.

- Nghĩa là.....

- Nghĩa là một kẻ bị lạc hay một kẻ bị đày cũng thế, trong cái xã hội cỏn con khó chịu nầy.

- Thưa ông, ông dạy quá lời. Tôi có bị lạc hay bị đày gì đâu.

- Ông dối tôi hay ông cố tình bảo thế. Thật ra những cảnh sống của ông vẫn không qua đôi mắt của những kẻ đồng hội đồng thuyền.

Tôi được biết ông là do người bạn văn ở xa gửi về giới thiệu. Ông có biết anh Kỉnh không?

- Anh Kỉnh à? Làm gì anh ấy biết tôi ở đây?

- Sao lại không? Anh ấy biên thơ cho tôi nói sau khi tờ tuần báo TUỔI TRẺ của các anh chết, anh Kỉnh lui về Trảng vui thú gia đình, còn anh thì lang thang về quê, chán quá phải đi làm cuộc đời nơi chốn nầy đây.

- Trời! Anh nói nghe quan trọng quá. Làm gì có một đời với tất cả ý nghĩa của nó để làm lại hả anh? Những thằng như tôi chỉ có nay ngược mai suốt đời, không đói rách cũng là phần phước. Có gì mà đến phải đi làm lại, nhưng anh có thể cho tôi biết quý danh của anh chăng?

- Xin tự giới thiệu: Tác giả tập thơ TIẾNG TRỐNG TRƯỜNG,

- Thế ra anh là Xuân Hồ!

- Phải. Chính tôi!

- Tôi đã được đọc anh trong một vài tờ báo xuất bản ở Hà Nội và Saigon, nhưng tôi chưa được hân hạnh quen biết anh. Tình cờ hôm nay lại gặp một người bạn quí trong lúc tâm hồn tôi đang nổi loạn.

- Thật anh dạy quá lời. Tôi cũng chỉ là người yêu văn chương xoàng thôi, có gì đáng kể.

- Nhưng ít nhứt tôi cũng đã gặp anh, một tâm hồn bạn. Âu cũng là duyên văn. Rồi đây có lẽ có hai ta, hai ta nơi này thôi, để an ủi cho nhau những ngày khổ sở.

Phải nói là khổ sở anh ạ! Vì thật chúng ta đang hết sức khốn nạn từ phần xác lẫn phần hồn.

Trong giây phút thôi, Long và Hồ đã thành một đôi bạn thân.

Có những tâm hồn quen thuộc nhau lắm, chỉ chờ gặp gỡ nhau là để mở lòng. Họ chưa biết đã quen, chưa gần đã mến. Huống chi đã gần đã biết, bao nhiêu những nỗi ẩn lòng đau đớn, bao nhiêu những hy vọng vui tươi có gì mà họ lại chẳng chia sẻ lẫn nhau.

Hồ dạy học cho con quan lớn vì các ông quan con của ngài cũng cho anh Hồ một căn phố nhỏ và cho mượn một ít bàn ghế cần thiết để dùng vì dầu sao ngài cũng giữ đôi chút thể thống cho ông giáo của các con ngài.

Với đồng lương ông trả cho Hồ cũng hơi rộng rãi đủ tiêu. Có lẽ ông nghĩ tiền bạc gì của mình mà phải đắn đo. Và cũng sợ trả ít quá Hồ không hết lòng dạy dỗ.

Từ đó Long và Hồ đã bắt đầu khăng khít.

Không phút nào, ngoài giờ làm việc, họ lại chịu rời nhau cả.

Họ bàn nhau về những nhà văn từ Âu sang Á. Họ cãi nhau từ những thi gia từ cổ chí kim.

Họ đọc cho nhau nghe từng đoạn kịch của Shakespeare hay thuật lại từng cảnh sống lầm than của đứa trẻ mồ côi David Copperfield để bình luận lối văn tự thuật của Charles Dickens. Có đêm, họ kề tai nhau như một đôi nhân tình để ca tụng những trang thơ của Rabindranath Tagore hay Baudelaire.

Chán cái thú ngâm thơ, Hồ (vì Hồ là người Trung) lại trỗi giọng lý những điệu hát Huế. Tiếng Hồ ngân nga vang lên trong đêm tối, nhứt là về khuya, làm cho những người hàng xóm tưởng chừng như Long và Hồ có lẽ sắp điên.

Đêm nào, nếu Hồ không xuống ngủ nhà Long, tất Long phải lên ngủ nhà Hồ.

Có thế chớ! Ai lại chịu cô đơn trong đêm dài dặc để nghe cái buồn không gian lắng xuống tận đáy lòng.

Hồ nghèo lắm. Càng hiểu gia thế Hồ, Long càng thấy mến Hồ hơn. Áo quần Hồ thường không đủ mặc. Nhứt là những hôm trời mưa liên tiếp, quần áo Hồ giặt không kịp khô, Long phải đưa quần áo chàng cho Hồ mặc.

Có một đêm, cái đêm mà Long không bao giờ quên được. Long và Hồ mải say sưa với vở truyện SERVITUDES HUMAINES của Somerset Maugham, mà thức gần đến sáng. Khi nghe tiếng canh cuối cùng đã đánh, Long và Hồ mở cửa ra thấy trời lạnh mờ sương. Cửa dinh chưa mở, Hồ phải vén quần lội suối đi xuống quán Năm Kiều, gọi chủ quán thức dậy pha cà phê. Hồ rót cả vào ly mang về Long uống cho tỉnh để lát nữa đi làm việc.

Có một điều khi nào nhắc đến Long cũng phì cười là con chó “Cô Tô” của Hồ.

Nghèo như Hồ, quần áo không đủ mặc, cơm nước không đủ no, mà lúc nào anh cũng nghĩ đến con Cô Tô.

Con Cô Tô, một thứ chó Nhật, nhỏ bé, xù lông, lúc nào cũng được Hồ săn sóc chu đáo như một nhân tình. Nó ăn sang hơn anh, mặc dầu nó chỉ là chó. Có tiền, cà phê, bánh ngọt, anh không tiếc một tí gì với con Cô Tô. Động có ai nói đến thì anh chỉ mỉm cười:

- “Nhà văn Nguyễn Vỹ nghèo xơ, nghèo xác, nhìn đoàn chó gậm trơ xương, khi gánh cát ở Hà Nội, khi bán báo ở Saigon, mà hễ có chút đỉnh tiền mà mua trái bôm (pomme) cho con khỉ của chàng ăn”.

Chuyện ấy không biết thực hư thế nào. Nhưng giá nó bịa còn hay hơn sự thật.

Dầu sao, Long tin chắc rằng ở đời, thường có những kẻ nghèo chỉ biết vui với những cái vui của người khác. Mà sự thiếu thốn về vật chất nhiều khi không phải là một lý lẽ để cho họ chán đời.







IV

Long tin rằng nơi vắng vẻ nầy, chỉ có Long và con Cô Tô cũng đủ cho Hồ an ủi đời sống.

Có dè đâu một chiều kia, Long ở sở về, vừa cởi áo, Hồ đã từ đâu xông vào nhà, và ngâm to lên:

“Hồ ơi! Tôi không muốn yêu,
Mà cứ mỗi buổi chiều quanh đi,
Lòng tôi thấy thiếu cái gì!
Lòng tôi thấy thiếu đôi mi dịu dàng!”[1]

Long ắt ầm lên:

- Ồ! Anh Hồ! Anh điên rồi à?

Không trả lời, Hồ lại càng ngâm to lên:

“.....lòng tôi rịt chiếc khăn tang,[2]
Lòng trôi để lệ tràn khôn lau”.

Bực quá, Long lại la lên:

- Ồ! Anh Hồ! Có gì bực thì anh cứ nói. Hay là anh định chế nhạo tôi với những câu thơ vừa viết phỏng hôm qua mà anh đang đọc vang lên thế?

Cũng không trả lời, Hồ ngâm tiếp:

“Sống toàn với những chiêm bao,
Với ngàn tuyệt vọng đầy ngao ngán tình.
Ấp yêu chỉ bóng với hình,
Rồi ra thì cũng một mình mình thôi”.

- Anh Hồ! Bộ anh điên rồi sao?

- Phải. Tôi điên rồi anh ạ! Tôi điên vì.....

- Vì tình?

- Có lẽ thế.

- Hèn! Tôi không ngờ phải làm bạn với người hèn như anh.

- Ủa kìa! Sao anh lại bảo tôi hèn. Đến anh lại cấm tôi yêu à?

- Nào tôi đã cấm anh yêu đâu.

- Anh không cấm tôi yêu, sao anh lại bảo tôi hèn?

- Phải. Anh hèn vì anh vừa nói: anh điên. Anh điên vì một thứ mà tuổi thanh niên mình với cái nhiệm vụ tối cao của nó không cho phép.

- Chết! Tôi lại gặp phải lý luận nữa.

- Anh có thể yêu nhưng bao giờ được quyền để tình yêu vật ngã anh.

- Anh quên rồi à! Mausset đã từng than thở:

Les plus désespérés sont les chants les plus beaux
Et j’en sais d’immortels qni sont de purs sanglots[3].

- À! Thế ra anh muốn đau thương để tìm Nàng Thơ. Nhưng tôi xin nhắc để anh nhớ: Đau khổ để đau khổ và đau khổ để tìm tài liệu và rút kinh nghiệm trong đau khổ vẫn là hai chuyện khác nhau. Nếu ở trường hợp thứ nhì thì không phải nói. Nhưng anh ở trường hợp thứ nhứt thì tôi rất tiếc cho một thanh niên như anh.

- Anh nói có lý. Nhưng nếu tôi ở trường hợp thứ nhứt, tôi cũng không thấy gì để anh phải tiếc cho tôi. Chateaubriand suốt đời chỉ sống bằng lệ, lê chân tới đâu cũng chỉ toàn thấy chán nản buồn đau. Và đời Chateaubriand có phải hoang phí đâu khi ông vẫn để lại một sự nghiệp văn chương vĩ đại cho đời.

- Mà biết đâu anh lại không phải là Chateaubriand và tuổi thiếu niên anh có thể giúp ích cho đời bao nhiêu việc khác, nếu anh không bị ngã gục dưới mối tình điên của anh vừa nói. Nhưng nào! Anh có thể cho biết Nàng Thơ đó là ai không?

- Còn ai lạ nữa! Anh có biết tiểu thơ của quan chủ quận mình không?

- Không.

- Lạ thật! Tôi không ngờ anh lơ đãng đến thế được.

- Ủa kìa! Anh Hồ, làm gì lơ đãng mới được chớ? Có quan tâm mới có lơ đãng. Không quan tâm mà anh bảo lơ đãng thế nào?

- Thế anh không biết cô Ngôn, con chủ quán chúng mình à? Cô ta học trường “đầm”, bãi trường vừa về nghĩ lễ đây!

Long cố đào óc, tìm coi có dáng hình nào đẹp đẽ thướt tha để trả lời với tên Ngôn mà Hổ đâm si mê chăng? Long ngồi nặn trán nghĩ ngợi, trong lúc Hồ cau có gần như giận dỗi vì sao Long vô tình đến nỗi không biết cả tên lẫn người cái con người có duyên như Ngôn.

Rồi như nghĩ ra một điều gì hay hay, Long mỉm cười tiếp:

- Có phải ý trung nhân của anh là cô em chiều chiều ra tắm suối đùa nghịch với mấy cậu bé con đấy không?

- Chính nàng đấy!

- Chao ơi! Rõ khổ chưa! Cô ta còn bé bỏng quá, nô đùa như trẻ con mà nào có biết gì. Thảo nào Thi sĩ Xuân Hồ lại chẳng khổ tâm!

- Anh đừng đùa cợt. Anh nên kính trọng tình yêu của kẻ khác. Từng tuổi ấy mà anh lại bảo bé thơ. Anh quên cái tuổi mười tám là cái tuồi của lửa tình bốc dậy với tất cả nhiệt độ. Chẳng qua cô ta học trường “đầm” nên cử chỉ coi tinh nghịch lố lăng đấy thôi.

- Có lẽ hôm nay có người sung sướng mà không hay vì người ấy đã được một thi sĩ khoác áo trạng sư biện hộ cho mình.

- Anh cứ đùa mãi. Tôi hỏi: Anh có nhận ra cô ta đẹp và có duyên chăng?

- Trời! Anh làm khổ tôi vừa vừa chớ! Nào tôi có nhìn mặt cô ta lần nào tường tận đâu mà anh bảo có duyên với không. Nhưng nầy: Nếu anh không chê là thầy đời, anh cho phép tôi khuyên anh:

“Con vua thì được làm vua,
Con sãi ở chùa phải quét là đa”.

Với cái chức giáo tư vài mươi bạc lương một tháng thì anh liệu mà trèo.

- Ồ! Anh lại xưa như trái đất rồi! Tình yêu nào có giai cấp hả anh?

- Tình yêu đành rằng không có giai cấp. Nhưng thường ở trong giai cấp, người ta mới chọn lựa tình yêu.

Biết mình, biết người, ấy là phương châm để cho mình đỡ khổ. Thà cứ như một thi sĩ cầu khẩn mãi:

“.....Trời đừng cho búp lên hoa
Cho khi vừa đến là tôi xa nàng”[4]

để giữ mãi cái không khí êm dịu nhẹ nhàng của người đã yêu mà người bị yêu không bao giờ hay biết.

- Anh đừng triết lý anh Long ạ! Rồi vái trời cho anh một lần yêu điên cuồng như tôi!

- Dầu tôi phải yêu như anh. Tôi cũng cố dặn lòng lúc nào cũng đừng quên hai chữ ĐỊA VỊ, nhứt là trong một cái xã hội mà chế độ GIAI CẤP

Nghe Long nói, Hồ chỉ chấp tay trước ngực, lim dim đôi mắt lẩm bẩm:

- Lạy trời phù hộ cho anh Long!

- Trời làm gì phù hộ được. Người ta yêu một cách đui mù thì người ta khổ, người ta chết cũng là sự thường.

Thật ra Long thấy Hồ bơ phờ, kém vui thì Long cũng thấy làm ái ngại. Long tìm đủ cách để khuyên dỗ Hồ, khuyên nhủ một người đã đau khổ vì yêu không phải chỗ.

Nhưng một hôm, Long đang ngồi loay quay với mấy con số trong phòng giấy. Chàng cộng trừ nhân chia mãi mà bao nhiêu bài toán đều sai bét như thường. Chàng bực mình tự nghĩ nào đời mình có phải sống để đùa bỡn với mấy con số đâu. Nhứt là trong lúc tâm thần Long khủng hoảng những con số gầy số béo, số bé, số to như được dịp lao nhao nhảy múa trêu ghẹo trước mặt chàng một cách tàn ác.

Long đang cố tính cho xong mấy con số thì nghe một tiếng đập bàn vang dậy trong phòng quan lớn, kế tiếp tiếng quát tháo om sòm:

- Đồ khốn nạn: Đồ khốn nạn: Không thể tử tế với giống mầy được nữa.

Bao nhiêu con mắt của mấy anh lính lệ, của người chạy giấy, cho đến con mắt bơ thờ, ít tọc mạch nhứt của Long cũng dán vào cửa phòng của thượng quan coi cái người vô phúc dám xúc động đến oai hùm là ai.

Nhưng lạ quá. Không một bóng người vào ra trong phòng thượng quan và cũng không nghe tiếng của kẻ có tội van lớn cầu khẩn.

Long đang phân vân không biết rồi có việc gì đến mình không (vì thường Long là một đầu đề cho bao nhiêu việc chốn này). Bỗng người thư ký phụ tá đến hỏi Long một cách quan trọng. Cứ xem cái dáng điệu của anh chàng và cái vẻ làm ra bí mật cũng đến buồn cười:

- Thầy Long, thầy có biết việc gì không?

- Dễ thường thầy cứ tưởng tôi là Khổng Minh Gia Cát chỉ bấm ngón tay là biết được cơ trời. Nhưng lại chuyện gì đến tôi mà thầy bảo tôi biết chớ?

- Không chuyện gì đến thầy, nhưng nếu thầy nghe rồi bỏ đi thì tôi xin nói cho thầy rõ.

- Nếu chuyện ấy dính dấp gì đến tôi thì tôi xin nghe.

- Không dính dấp gì đến thầy nhưng với bạn thầy.

- Thầy Hồ?

- Phải. Thầy Hồ.

Người thơ ký chưa nói tiếp, Long cũng hình dung được câu chuyện của Hồ là câu chuyện gì rồi.

- Phải. Chính thầy ấy (người thơ ký phụ tá tiếp), hôm chủ nhật rồi, quan lớn đi vắng và quan bà cùng mọi người đi Saigon chơi cả. Ở nhà chỉ có cô Ngôn coi nhà. Trong lúc vắng người, thầy Hồ có lên nhà hầu chuyện với cô Ngôn ở phòng khách. Khi quan lớn về có người học lại nên quan lớn mới giận dữ như thế.

- Có thế mà quan lớn lại phải chửi mắng người ta trong lúc không có người ấy. Giá phải quan lớn cứ cho gọi ngay thầy Hồ đến để quở trách người ta về sự vô lễ có hay hơn không, vì thầy Hồ vẫn làm việc cho quan lớn kia mà.







V

Vừa trong phòng giấy ra, Long muốn đi ngay lại nhà Hồ cho Hồ biết sự tình. Nhưng vì mài miệt với đống kếch xù ban nãy, Long thấy mệt mỏi và cần đi ngay về nhà nghỉ. Chiều, Long sẽ lên Hồ cho Hồ biết chẳng muộn gì.

Về gần đến nhà, Long thấy cả cửa lớn và cửa số mình mở toác ra. Chàng biết ngay là có Hồ ở đấy, vì Hồ cũng có một chìa khóa của nhà Long. Long đã đưa cho Hồ một chìa khóa nhà mình để bao giờ vắng Long mà Hồ muốn xem sách, Hồ có thể tiện đến mở cửa lấy đọc.

Hồ đang lui cui quét nhà cho Long thì Long bước vào. Hồ đã vội khoe.

- Anh coi tôi có giỏi không. Nhà cửa dơ quá mà anh vẫn để như vậy được.

Rồi Hồ tự đắc phá lên cười. Long nghiêm sắc mặt và quá bực mình vì chuyện ban nãy ở phòng giấy, chàng gắt lên:

- Đó thấy chưa?

- Ùa kìa: Đã quét nhà giùm, không ơn thì chớ, anh lại ầm ĩ lên để trừ à!

Vẫn nét mặt nghiêm khắc, Long tiếp:

- Còn vui được gì nữa mà đùa hỡi anh? Anh đã thấy kết quả của chuyện anh làm chưa?

- Chuyện gì mới được chớ?

- Lại còn chuyện gì, Anh coi tôi nói có sai đâu.

- Thì ai lại bảo anh nói sai. Nhưng anh nói trúng cái gì mới được chớ?

- Cái gì! Cái gì thì anh biết?

- Tại sao anh lại gắt gỏng với tôi vô lý như thế. Anh lại không thương tôi nữa rồi sao?

- Làm gì thương được. Tôi đã ngăn cản anh lắm lần mà nào anh có chịu nghe tôi đâu.

- Nhưng tôi đã làm gì nên tội chớ, anh cứ nói đi!

- Làm gì? Anh cứ vờ lôi thôi mãi.

- Nếu tôi đã biết thì cần gì phải hỏi anh.

Không nén nổi cơn giận, Long chỉ buông thõng:

- Cô Ngôn.

- Cô Ngôn à?

- Chớ còn ai nữa.

- Nhưng cô Ngôn làm gì mới được chớ? Anh cứ lải nhải mãi.

- Phải. Tôi lải nhải mãi nhưng không ai chửi được vào đầu tôi.

- Chớ ai chửi được vào đầu tôi?

- Thế mà có người chửi được mà mình không làm gì được người ta mới tức chớ!

- Ai?

- Quan lớn ngài chớ còn ai nữa.

- Ông ta chửi tôi à! Nhưng vì lẽ gì mới được chớ?

Vì lẽ gì anh còn phải hỏi. Anh tự tiện vác xác đến nhà người ta để hầu chuyện với con gái người ta trong lúc người ta vắng mặt.

- Rồi sao?

- Rồi người ta cho mình là hèn, là tồi, là khốn nạn, mặc dù người ta không kêu đích thân tên mình,

- Chỉ có thể rồi ông ta chửi tôi?

- Còn phải hỏi! Như thế anh còn cho là ít lắm sao?

Hơn nữa tôi nghĩ.....

- Anh nghĩ thế nào?

- Tôi nghĩ anh nên xếp đồ đạc đi là vừa.

- Nghĩa là người ta đuổi tôi?

Chưa nguôi cơn giận, Long còn chua chát:

- Làm gì người ta dám đuổi anh. Có lẽ rồi đây người ta sẽ hết sức nhã nhặn nói với anh rằng con cái người ta sắp gửi vào trường Saigon cho nó theo học chương trình nhà nước và người ta sẽ mời anh đi tìm một việc làm khác cao lương và nhàn hạ hơn. Nghĩa là chắc chắn nay mai, người ta sẽ tìm cách tống cổ anh đi khỏi nơi nầy để không phải chướng mắt.

- Trời! Tôi đâu có dè!

Câu nói vắn tắt của Hồ ấy bao hàm tất cả ý nghĩa chua xót của một người mất việc. Đôi mắt Hồ bỗng nhiên tối sầm lại, đôi môi mím chặt, để cố giữ lại cái gì hình như giọt nước mắt.

Hồ không khóc. Khóc làm gì một việc mà chính mình đã nhận chịu những kết quả đau đớn trước khi làm. Nhưng đôi mắt mờ mờ buồn thảm ấy đã làm cho Long hối hận vì đã mỉa mai nỗi đau khổ của người. Long thấy buồn, buồn một cách thấm thía. Chàng tưởng chừng như có thể khóc được hơn Hồ.

Long thở dài và lặp lại câu nói khi thốt xong, Long thấy nó thừa quá:

- Chính tôi khuyên bảo anh nhiều lần mà anh có chịu nghe đâu. Giá anh cứ chịu khó nghe tôi thì cơ sự đâu đến đỗi.

Hồ buồn rầu chép miệng:

- Làm sao nghe anh được chớ? Anh không hiểu rằng tình yêu không bao giờ nghe được lẽ phải vì chính nó có lẽ phải của nó sao?

- Anh lại lý luận làm gì khi chén cơm sắp rơi.

- Chén cơm rơi cứ rơi. Lòng tôi thấy đầy đủ là được.

- Anh lại chắc lòng anh đầy đủ à?

- Sao lại không?

- Anh đã chắc được yêu?

- Sao lại không?

- Tôi không muốn làm khổ anh lúc nầy chớ thật ra tôi lấy làm ngờ lắm anh ạ!

- Anh ngờ cái gì? Tôi chắc chắn với anh rằng cô Ngôn vừa bắt đầu yêu tôi.

- Nhưng khốn một nỗi, khi cô ấy bắt đầu yêu anh thì anh lại bị bắt buộc phải bắt đầu nối bước giang hồ.

- Nhưng cũng đã để lại một mảnh tình thơ......

- Và một ít tin tưởng. Tôi cũng cố tin như thế.

Hồ nghe cái tiếng “cố tin” của Long ngạo nghễ quá. Chàng toan cãi lại với Long. Nhưng sự buồn khổ trong lòng Hồ đã đẩy Hồ không còn đủ sức để đương đầu với cuộc cãi lý.

Long thấy Hồ quả quyết rằng chàng được yêu quá, chàng cũng định thôi không nói gì nữa để cho Hồ yên lành say sưa với tình yêu lý tưởng của chàng. Nhưng đôi mắt Hồ biểu lộ rõ nét một lòng đau đớn ê chề thảm thiết quá, không thức tỉnh Hồ với tấm tình điên của chàng có lẽ sẽ hại cho sức khỏe của Hồ, và nhứt là làm cho Hồ kiệt sức tiến thủ trên đường đời.

Long nghĩ: “Thà gieo vào lòng Hồ một mối căm hờn để cho Hồ khổ sở với một tình yêu viển vông nó đưa chàng đến chỗ chết lần mòn vô lý.

Long cố lặp lại một giọng mỉa mai hơn:

- Phải. Tôi cố tin như thế anh Hồ ạ!

Hồ bực quá dằn từng tiếng một:

- Sao lại cố tin? Anh cứ bảo là anh tin chắc như thế có được không?

- Tôi muốn tin chắc như thế lắm. Nhưng có điều bắt tôi phải suy nghĩ mãi......

- Anh suy nghĩ thế nào?

- Tôi suy nghĩ anh đã bị người ta lợi dụng mà anh không biết anh Hồ ạ!

- Người ta lợi dụng tôi à!

- Có lẽ!

- Vì sao?

- Vì hình như có gì bí ẩn bên trong. Anh nhớ anh bạn thân của tôi ở đây ai lại không biết.

- Như vậy nghĩa là gì?

- Nghĩa là muốn hiểu tôi chu đáo, không hỏi ai chắc chắn bằng hỏi anh. Anh cứ nghĩ kỹ lại coi trong câu chuyện giữa anh với Ngôn hôm ấy, Ngôn có đả động gì đến tôi chăng?

Hồ ngồi ngẫm nghĩ một lát, chàng chậm rãi đạt điếu thuốc lên môi kéo một hơi dài, rồi đáp:

- Hình như có anh Long ạ! Nhưng chỉ nói đến là để chế giễu đời nghệ sĩ nghèo nàn khổ sở của anh thôi.

- Chế giễu tôi?

- Phải.

- Nhưng anh có nhận thấy sự chế giễu ấy có gì gượng gạo không tự nhiên như để che đậy một cái gì chăng?

- Có lẽ bây giờ anh nói tôi như sáng trí ra. Hình như sự kiêu ngạo ấy có một vẻ gì miễn cưỡng lắm. Nhiều lần, cô ta đả động đến chuyện anh với dáng vẻ vô tư, như không còn chuyện gì khác để nói nữa để phải thỉnh thoảng lại lôi anh ra mà cười đùa. Nếu tôi nhớ kỹ thì hình như có lần cô ta vô tâm gọi anh là thi sĩ gàn trong câu chuyện.

- Đấy, như vậy nghĩa là tôi không lầm lạc gì nữa?

- Mà lầm gì mới được chớ?

- Anh chậm hiểu quá. Anh ngây ngô đến nỗi vô tình làm một thám tử để người ta hiểu qua thân thế tôi.

- Anh nói gì?

- Tôi nói anh bị lợi dụng. Mà kết quả khốn nạn của sự lợi dụng ấy là anh phải chịu mất bát cơm.

- Kìa anh Long! Tôi đã nói tôi yêu và bằng lòng mất bát cơm vì yêu mà!

- Anh chưa chịu nhìn thẳng vào sự thật sao? Anh mất bát cơm là một điều khổ sở cho anh mà anh đã được gì cho cam. Nếu có hạnh phúc thì có lẽ cũng ai hưởng chớ không phải anh. Anh vô tình đã làm một con vật hy sinh.

- Nghĩa là.....

- Nghĩa là cô ta chỉ tiếp anh để hiểu qua tôi, anh còn gì nữa để mà không hiểu. Anh đội lá để người ta ăn bánh mà cứ còn có thể nói được là người ta yêu anh à! Tôi tưởng dại chỗ đó không có tình yêu mà chỉ có một nỗi hờn giai cấp.

- Như vậy nếu không thể có được một tình yêu thì vẫn còn một tình thương chớ sao lại nói là mối thù?

- Có lẽ anh là một kẻ đại từ, đại bi nên anh mới thấy lòng tự ái anh không bị xâm phạm. Riêng tôi, tôi phải nghĩ cách trả thù cho anh.

- Bằng cách nào?

- Tôi không vội nói. Nhưng dầu ở phương trời nào, rồi anh cũng sẽ hay hành động của tôi.

- Anh có cách nào cứu chữa tình thế tôi chăng?

- Dẫu có cứu chữa được nữa, danh dự vẫn là nặng. Ta không thể quì dưới chân kẻ địch mà yêu cầu một ân huệ gì. Nhưng có điều anh nên nhớ là lúc nào tôi cũng ghi tâm mối thù của anh.

- Tôi đã bảo không có thù oán gì cả. Tôi yêu và chịu thiệt thòi trong tình yêu.

- Thiệt thòi trong tình yêu. Thật là cao quí lắm, nhưng đã có được một cái gì kia. Khi nó đem lại cho anh một sự khinh khi rẻ rúng mà anh cũng vui lòng thì tôi thật chẳng biết anh ra làm sao. Anh quân tử quá đến đỗi người ta tát mạnh vào mặt anh mà anh vẫn vui như thường. Tôi không thể chịu được, tôi phải trả lại một vố cho thật đau rồi nó có muốn ra sao thì ra.

- Dầu sao tôi cũng tìm cách cho Ngôn biết vì Ngôn mà tôi khốn đốn.

- Vô ích. Như thế anh đã phản bội với lòng quân tử của anh. Giờ này anh vẫn chưa nhận ra người ta xem thường tình yêu của anh à! Mà liệu anh còn có thể gặp được Ngôn nữa không chớ?

- Có thể lắm.

- Nếu người ta thành thật yêu anh thì đâu đến đỗi. Anh có nói gì nữa cũng bằng thừa. Và có điều tôi tin chắc rằng người ta sẽ giữ Ngôn trong một kỷ luật sắt, anh sẽ không bao giờ còn có thể gặp được đến ngày anh ra đi.

- Trời! Khổ cho tôi chưa?

- Thì đã bảo!

Long và Hồ còn đang bàn tán thì có người lính lệ thập thò ngoài cửa. Long biết ngay rằng có điều bất lợi cho Hồ. Long định lên tiếng gọi anh lính ấy vào thì anh lính đã bước vào ngưỡng cửa cúi đầu chào:

- Bẩm thầy, quan lớn cho mời thầy Hồ lên quan lớn dạy việc.

Long hỏi:

- Ngay bây giờ?

- Dạ ngay bây giờ (Người lính đáp)

Long càu nhàu: “Dầu gì đi nữa thì cũng để người ta ăn cơm đã chớ!”

Hồ tiếp:

- Thôi được rồi. Anh cứ về bảo quan lớn đông hầu sẽ có tôi đến.

Người lính chào Long và Hồ bước ra.....

Long nhìn Hồ.

Hồ nhìn Long.

Trông nhau mà rớm lệ. Một lúc, Long bùi ngùi nói với Hồ với giọng oán trách:

- Đó anh thấy chưa? Kết quả của sự điên cuồng anh?

Hồ chỉ đành buông xuôi một tiếng thở dài:

- Thì để xem cơ sự ra sao đã!







VI

Long đi bách bộ quanh phòng.

Chàng cố nện từng gót giày trên nền gạch kêu lên thật to để trấn áp sự im lặng nặng nề nó bao trùm lấy Long trong đêm dày dặc.

Nhưng càng về đêm, sự im lặng lại càng nặng nề thấm thía hơn. Nó sống dậy một cách mạnh mẽ sau mỗi tiếng giày chấm dứt.

Lòng Long thấy tê tái vì sự quạnh hiu.

Hình ảnh Hồ như còn ẩn hiện nơi đây. Chàng thấy nhớ Hồ tha thiết như một nhân tình.

Buồn quá, Long ngâm to lên mấy câu thơ mà Hồ mới viết hôm nay đây trước khi chia tay:

“Chia tay mắt lệ, sông mờ,
Nhớ thương mấy bến, đợi chờ mấy truông,
Từ đây nhớ nhớ thương thương.
Những chiều sông nước mờ sương những chiều.....”[5]

Nhưng không chịu nổi cái thấm thía chua xót của nỗi biệt ly, chàng ngồi xuống chiếu, lấy thuốc lá trong túi ra hút để nhìn thấy khói giải khuây.

Khói thuốc lá nhẹ nhàng bốc lên. Nhìn khói thuốc uốn quanh rồi phai nhòa trong màn tối, chàng cố quên cái buổi chiều lịch sử mà Hồ, tay xách va ly, tay cầm mũ, từ trên một chiếc xe lửa hạng tư, vẫy chàng dưới bến cho đến khi xe khuất trong màu tím ngắt của một sở cao su gần sân ga.

Càng cố quên hình bóng Hồ lại càng cứ lồ lồ hiện ra trong đầu chàng mãi, khi mỉm một nụ cười đau thương, lúc cau mày giận dữ. Không biết giờ nầy, Hồ đã được ngã mình trên chiếc giường nệm nhân từ êm ái, hay còn lang thang với mớ hành lý trên một con đường vắng không nhà.

Buồn cho Hồ ba đào, Long lại giận cho Ngôn ác nghiệt. Đã không yêu người thì chớ, lại dùng chi cái thoi khuynh thành trêu người để khổ cho Hồ. Mà giận cho Ngôn tinh quái đùa người, Long lại thấy cái tấm lòng nhỏ mọn của quan chủ quận.

Chàng thấy mình không thể sống nơi nầy được nữa.

Có lý nào lại dùi thân mài miệt giữa một đám người độc ác, hẹp hòi.

Đã hiu quạnh, Long càng thấy mình hiu quạnh.

............(kiểm duyệt bỏ ba dòng --- Ghi chú của NVS)............
..................................................................................................

Nhưng nghĩ đến thể thống mình, nghĩ đến thanh danh của gia đình mình, nghĩ đến bao nhiêu người quen thân xa xôi sẽ buồn khổ với hành động quá khích của mình, Long chỉ đành cắm răng cam chịu ngậm hờn.

Chàng không thể phản giáo dục, dẫu một cái giáo dục trưởng giả quá thời.

Tuy chàng biết nó chật hẹp, nó nghiêm khắc đến bực mình, nhưng chàng không đủ can đảm chiến thắng nó, nhứt là giữa lúc chàng đang cô độc, không có ấy một kẻ tán đồng.

Chàng rất căm tức cái giáo dục nô lệ phục tùng, lúc nào cũng lấy câu châm ngôn “Một câu nhịn, chín câu lành” làm gốc. Nếu nó có một cái hình xác chắc chắn, chàng quyết nhảy vồ lấy nó mà mắng: “Mầy! Giáo dục trưởng giá phục tùng, mầy muốn cho người ta vinh thân phì da, mầy muốn cho người ta nô lệ bất cứ một luân lý nào, một đạo giáo nào, một chế độ nào, mầy là một thứ phản tiến hóa của nhân loại, tao sẽ dằn xác mầy ra, tao sẽ đâm bầm mày ra, để tìm thấy sự tự do hành động theo ý kiến tao”.

Nhưng khổ quá, có ai đi hăm he một cách vô ích như Long, một chế độ ********.

Long bất bình, bất bình tất cả. Chàng bất bình từ cái tập hồ sơ cho tới cái sọt đựng giấy, bất bình cả cái trống nhà hầu nheo nhéo vô duyên.

Chàng muốn xé, muốn ném, muốn đập, muốn nhồi tất cả những cái gì trước mặt chàng.

Khốn nạn! Cái gì mà cái cửa, ngày hai buổi, mở ra khép lại bốn lần để giam rồi thả Long ra?

............(kiểm duyệt bỏ năm dòng --- Ghi chú của NVS)............
..................................................................................................

Cái gì mà những cây viết, đáng lẽ để diễn đạt những tư tưởng cao sâu, những lời lẽ quí báu hay để phát triển những khoa học tân tiến giúp ích cho xã hội loại người, lại phải để dùng vào những tờ vi bằng hèn,..... những tập hồ sơ trơ trẽn.....

Uất ức quá!

Chí trả thù đột nhiên thâm nhập vào đầu Long.

Hãy chiếm ngay quả tim Ngôn.

Chiếm ngay quả tim Ngôn, tức là gieo loạn trong gia đình trưởng giả của quan chủ quận.

Chiếm ngay quả tim Ngôn, lòng quan bà sẽ ê chề vì một mối tuyệt vọng đau buồn. Còn đâu những vị kĩ sư, những trang bác sĩ, những bực lưu tôn công tử con ông cháu cha, đến quỳ lại dưới chân bà với bao nhiêu lễ vật xa hoa xin cưới tiểu thơ bà về làm “Bà Lớn”.

Chiếm ngay quả tim Ngôn để quan chủ quận ngài phải bặm môi chắc lưỡi, nước mắt rới mà chỉ biết than ngắn thở ngầm – “Trời! Nó giết tôi! Còn già nữa? Ôi gia đình danh giá”.

Chiếm ngay cô Ngôn để cho dư luận nổi dậy: “Đừng đem giai cấp mà ngăn đón lòng người”. để cho bao nhiêu tâm hồn uất ức đau thương được hả hờn bớt giận.

Chiếm ngay cô Ngôn! Ừ, phải rồi.

Nhưng trời, nỡ nào lại đi hại một người con gái vô tội ngây thơ.

Lòng Long phân vân.

Khói thuốc trên tay chàng cũng phân vân ngập ngừng, không biết lên cao hay xuống thấp.

Mà thấp cao âu cũng thường lệ sự đời.

Long còn ngại ngùng gì. Sợ cao thấp sao còn muốn phá gông cùm tập quán.

Nhưng liệu chiếm quả tim Ngôn có phải là chuyện dễ dàng đối với Long chăng?

Vì khi Hồ ra đi, bao nhiêu thám tử đặc biệt của quan quận chí còn thậm chí mỗi một mình Long thôi.

Nhứt cử, nhứt động là có hàng ngàn vô tuyến chạy về phi báo.

Nhưng có điều là lạ. Luôn hai buổi trưa, khi giờ đông hầu sắp đến, Long đi làm ngang qua cổng tư thất của quan quận, chàng đã hai lần bắt gặp đôi mắt Ngôn từ hai chấn song cửa số, dán vào người Long một cách ái ngại tò mò.

Long nghi ngại không biết là có phải quan quận đang chủ mưu một việc gì để hại Long, mà cô ta đã biết và, động mối từ tâm, cô muốn cho Long hay trước để đề phòng?

Nhưng Long lại nghĩ: “Rau nào, sâu nấy, làm gì cô ta có một lòng nhân đạo mà mong”.

Tư tưởng ấy bắt Long có một ác ý vô cùng mãnh liệt đối với Ngôn. Và luôn mấy buổi trưa, đôi mắt Ngôn êm ái chạm vào người Long khi Long đi làm. Long có cảm giác như đôi mắt nhưng êm dịu ấy chỉ đầy một trời dao găm tẩm độc. Cho nên ai nhìn ai cũng mặc, đường Long, Long bước, lạnh lùng như một dòng nước trôi đi.

Đêm càng khuya, gió càng lộng.

Long tưởng chừng như bên ngoài, cây không còn một chút lá, đá không một hạt bụi, đường không còn lấy một cây khô.

Gió to quá. Nó lung lay tất cả cửa ngỏ. Nó lọt vào những khe cửa sổ kêu vi vút bi đát như một điệu kèn đám ma. Và những luồng mưa đập mạnh vào mái nhà, mạnh đến nỗi nó chui qua những làn ngói bể, và rơi xuống từng giọt bên cạnh mình chàng.

Long bất giác thở dài.

Nếu bao nhiêu nỗi nhớ thương, bao nhiêu lòng căm tức, bao nhiêu chuyện bất bình chất chứa trong tâm hồn chàng được thét vang lên như gió, tràn vỡ ra như mưa, ta đi như những tia chớp ngoài trời lúc nầy thì chàng đâu đến phải ngồi yên ngủ không được.

............(kiểm duyệt bỏ ba dòng --- Ghi chú của NVS)............
...................................................................................................







VII

Một chiều chủ nhật.

Cũng như bao nhiêu tuần khác từ ngày Long đặt chân đến quận X....., cứ trưa thứ bảy ra sở là Long đón xe đi thẳng về Saigon, mãi tới tận chiều chủ nhật, người ta mới thấy Long trở lại để sáng thứ hai làm việc.

Trưa thứ bảy là ngày thoát ly của chàng. Chàng vui vẻ như một con chim non trong buổi sáng xuân. Chàng ca hát vang nhà, chàng nói cười dậy xóm.

Hân hạnh thay cho chiếc xe đưa chàng ra khỏi quận!

Chàng không ngần ngại gì mà gọi thầm chiếc xe giải phóng của chàng.

Cũng như bao nhiêu lần trên xe giải phóng chàng, Long đã tự trách mình sao không đủ can đảm để tự mình giải phóng.

Nhưng bao nhiêu pháp luật hiện hành luôn luôn xua đuổi cái ý nghĩ thoát ly tươi đẹp của chàng đi.

Chi nên lúc ra đi, Long đã tìm thấy cái vui vẻ trẻ trung bao nhiêu, thì lúc nãy trở về chàng lại chịu gánh nặng cái chán nán buồn rầu bấy nhiêu.

Chiều nay, cũng chiếc ao mưa rán nắng trên tay, cũng chiếc mũ nhung đen nặng nề trên mái tóc, vừa mở khóa bước chân vào nhà, chàng đã ngã gục với bao nhiêu cảm tưởng vô cùng chua chát.

Những lúc Long chổi dậy thay đồ ngủ đi nằm, Long thấy có bóng người thoáng ngang qua cửa.

Hẳn cũng là một điều là lạ. Nếu là những thầy ký quen, hay những người lân cận, có lẽ họ đã bước thắng vào nhà chớ đâu có qua lại trước cửa mấy lần.

Long đang phân vân chưa rõ thì có một người con gái bước vào chào chàng một cách lễ phép. Chàng ngạc nhiên định trí lại mới nhớ người con gái ấy là tớ gái của quan chủ quận mình. Nhưng Long chưa kịp hỏi gì thì cô đã trao cho chàng một cuốn tiểu thuyết và nói một cách đứng đắn:

- Thưa thầy. Hôm trước thầy mượn anh Công cuốn tiểu thuyết nầy, nhưng sách không có nhà. Hôm nay, anh Công nhờ tôi mang hộ lại thầy đây.

Long muốn hỏi: “Anh Công nào? và tôi mượn cuốn tiểu thuyết của anh ấy hồi nào đâu?

Nhưng Long chưa kịp hỏi gì thì cô ta đã bước ra. Thành thử, Long cầm tiểu thuyết trên tay, ngơ ngác như trên cung trăng vừa rơi xuống.

Nhưng chàng lại nghĩ: “Thôi. Mặc kệ, anh Công nào mình biết hay không cũng không cần. Ai có bụng tốt cho mình mượn sách trong lúc mình buồn cũng là một biệc hay hay”.

Chàng đang thầm cảm ơn một người bạn tốt thì bỗng nhiên Long vừa lật mấy trang đầu, một bức thơ rơi xuống.

Long linh cảm ngay rằng đó là một bức thơ tình. Mà bức thơ ấy hẳn là của Ngôn, tiểu thơ quan chủ quận.

Chàng mừng thầm vì cờ đã đến nước, cơ hội đã đưa chàng rửa hận bạn xưa.

Quả nhiên, khi bốc thơ ra, chàng không còn lầm lẫn gì nữa:

X......, ngày.....tháng.....năm....

Thi sĩ Bích Sơn

Mạn phép gọi Long là Thi sĩ Bích Sơn một cách đường đột như thế nầy thật là vô lễ, nhứt là đối với văn nhân tình cảm rất lọc lừa.

Nhưng đối với sự tọc mạch nầy, xin Long bỏ đi cho. Vì Long cũng rõ không ai thừa thì giờ để dòm ngó đến những người dưng nước lã, không tình không cảm.

Có tình cảm mới chú ý. Mà càng chú ý lại càng sanh dạ yêu thương.

Mới nói nghe sỗ sàng, nhưng lòng người vẫn thật. Đành rằng tim ai nấy biết, nhưng xưa nay lòng vẫn tin lòng.

Long đến đây như một đảo hoang vu, cũng như tôi sống giữa gia tư, mà vẫn ngỡ như lạc vào một chốn núi rừng hiu quạnh.

Long đã đến những ngày vô vị, cũng như tôi đã nghe những phút nhạt phèo.

Chỉ có những tâm hồn cùng một điệu tơ mới hiểu được những dây bổng phiếm trầm, những nỗi thắc mắc éo le của những cuộc đời tình cảm.

Ai lại ngày xanh như Long vùi thân trong một bể người xa lạ. Cũng như ai lại như tôi quầy quần trong một vòng quen mến mà phải luôn luôn cô độc lạnh lùng.

Thương cho Long mà cũng buồn cho tôi.

Những cái lang thang tiều tụy của Long hiện thời vẫn không dấu diếm được cuộc đời hào hoa phong nhã của Long trước mắt tôi đâu.

Che đậy người không tâm hồn, không tình cảm thì dễ, chớ dấu diếm người cùng tình cùng tính nào có dễ gì.

E một nỗi thơ đi thì có, thơ về vẫn không.

Người văn sĩ bao giờ cũng đầy một lòng tự ái, tư tưởng cao, hoài bão đẹp, trông vào một cô gái nào không khỏi bỉm môi phàn nàn rõ là một phường nhi nữ thường tình.

Có lẽ rồi trong đối mắt Long cũng vẫn còn đầy một vẻ giá băng. Và những lời lẽ nầy chỉ được xem như những lời học trò tập viết.

Biết đâu rồi lại thêm đôi lời chua chát: Ô hay! Những cậu ấm cô chiêu nầy muốn bỡn cợt ái tình!

Nhưng dâu trách dầu chê, tôi cũng đã phơi cả lòng tôi một cách chân chính thật thà.

Mà những ai có đủ can đảm chặc lưỡi bỉm môi là một kẻ vô cùng hẹp lượng.

Lòng tôi đã thế. Dâng ai, mong để được gì ai!

Kính thư,

Hoàng lệ Ngôn

Đọc suốt bức thư, Long hết sức ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì Long không tưởng tượng một cô gái nung đúc trong tinh thần trường giả, lại được thở toàn một không khí lố lăng phức tạp ở Trường Đầm, đã bị Âu hóa triệt để từ tướng đứng bộ đi, từ giọng cười tiếng nói, lại viết được một bức thư tiếng Việt một cách khéo léo đậm đà.

Không lẽ nàng lại cậy ai viết dùm vì nơi này chưa chắc có một người viết cho xuôi tiếng Việt. Mà không lẽ những quyển tiểu thuyết Pháp nằm ngang dọc trong những tủ sách của cha nàng hay những sách triết lý của Henri Bergson hoặc Freud của cha nàng lại có thế rèn luyện quốc văn nàng được như thế.

Tư tưởng ấy bắt Long phải suy nghĩ mãi về sự ly khai của giáo dục và bản tính, của xác thịt và linh hồn.

Cái xác thịt đáng yêu, cái linh hồn đáng yêu.

Thảo nào, cứ nhìn thẳng ở cái bề ngoài, người dẫu có cặp mắt tinh đời đến đâu, cũng không phải đôi khi tự thú đã lắm phen lầm lộn.

Long thấy mình vô lý cứ nhìn cái bề ngoài là ác cảm với người ta. Nói đúng ra, cái ác cảm không phải tự lòng Long sanh ra. Nó sanh ra bởi lòng hẹp hòi độc ác của cha Ngôn, bới tánh hóng hách khinh người của mẹ Ngôn, bởi cái hận lòng khổ sở của Hồ khi mất sở, và cái lố lăng bên ngoài của các cô Tiểu thơ trưởng giả ỡm ờ.

Bây giờ, cái ác cảm ấy đã vơi đi rất nhiều trong lòng Long nếu không là tiêu tan hẳn.

Làm sao có được những lời lẽ giản dị, nhưng đầy tình cảm, mạnh mẽ, nhưng thiết tha, lại có thể thốt ra được từ cửa miệng chỉ quen nhửng tiếng “Madeleine Trí, Thérèsse Lúa?”.

Lòng Long phân vân. Chàng đắn đo tìm cách đối phó với cái nguy cơ nó đang đợi chờ chàng.

Long bắt đầu yêu Ngôn chăng?

Thì đó, cảnh của Hồ vừa mới đó. Có khôn hãy ráng liệu hồn.

Nhưng không yêu Ngôn chăng?

Làm gì nhứt mã, nhứt nhơn nơi quê lạ xứ người, giữa giải rừng xanh, bên dòng suối bạc, không bạn tác không thân quen, lại từ chối được tình yêu của một người xuân nữ?

Vả lại tình yêu trong tuổi thanh niên dẫu có đẫm máu đào, hay có mùi thuốc độc, kết quả lắm khi gớm ghê rùng rợn, nhưng tự nó vẫn đẹp hơn tuyết núi, lộng lẫy hơn trăng sao, mê ly hơn những thần tiên ly kỳ huyền ảo.

Nhưng Long đã từng đau khổ, thề xem tình yêu như một thứ xa hoa tai họa và nhìn đàn bà như một giống yêu tinh mà không bao giờ Long muốn đón rước vào mình để rồi nay giận mai buồn.

Mà lòng chàng, nói làm gì cái trời tình cảm ấy. Nó chết đi là để sống dây muôn ngàn lần êm đềm mãnh liệt hơn.

Cho nên Long yêu là sự thường. Mà Long có thất vọng đau buồn cũng đừng ai lấy làm lạ.







VIII

.......ngày.....tháng.....năm....

Anh Long,

Nhận được thơ nầy, có lẽ Long cho tôi táo bạo thật, táo bạo từ văn từ, tư tưởng cho đến cả lối trao thơ.

Không táo bạo làm sao được anh Long ạ! Khi lòng mình bị rẻ rúng, tình yêu mình bị xem thường.

Không táo bạo sao được khi sốt ruột cả ngày, thơ thẩn suốt năm canh, mà lòng ai vẫn ơ thờ khép kín!

Không táp bạo sao được khi người con gái nầy không phải là hạng đặt đâu ngồi đấy, là một kẻ khi yêu biết đòi, khi cần biết hỏi, khi sầu biết than.

Hạnh phúc không phải là một thứ dửng dưng đến với người ta được, thì dầu có phải là đường đột, Long ơi! đó cũng là thường sự trong thời buổi nầy.

Nếu tôi không lầm, lòng Long đâu phải là sắt đá mà không rung động trước một tấm tình tha thiết xin tươi của Ngôn. Những có lẽ Long e những nỗi bực mình, những điều phiền phức nó có thể xảy đến cho Long với một tấm tình yêu ngoài vòng đạo lý. Nhưng Long cũng thừa hiểu không một đạo lý nào có thể kìm hãm được tình yêu cũng như bao nhiêu sắc đẹp ngai vàng chưa phải là chưa có những chiếc áo nhuộm bùn kề cận.

Huống chi Ngôn không phải là nơi thềm vàng bệ ngọc, mà Long cũng phải đâu là hạng tay lấm chân bùn.

Còn như Long nghỉ chuyện của Hồ mà đắn đo. Tôi tưởng tượng đấng trượng phu nào có xá gì nguy hiểm!

Đoạt được lòng sở thích, chiếm được khách giai nhân, tìm được kẻ tài hoa tri kỉ, thì dầu có phong trần suốt đời cũng cam. Chỉ hiềm vì một nỗi: Lòng không mãn nguyện, giai nhân tịch mù, mà tài hoa tri kỉ tìm đâu lấy bóng một người đến khi tóc bạc răng long.

Ở đời, kẻ sung sướng nhứt là kẻ yêu người muôn thủa, quên mình ngàn năm. Nhưng Long ơi! một kẻ kém tài thiếu đức, học ít tâm hèn như Ngôn làm gì dám mơ tưởng đến những cảnh thiên thai tuyệt đối ấy.

Thân ái chào,

Lệ Ngôn.

Long thân yêu,

Bắt được thơ Long, lòng mừng đáo để. Bao nhiêu ngày tối tăm dài dặc hôm nay như tắm được đôi chút nắng đào.

Em nghe cái gì nhè nhẹ lắm, có lẽ là một hương mơ nó êm đềm quyện lấy cả hồn em!

Anh Long đáng yêu! Anh làm cho em hồi hộp mãi. Em ngỡ là anh vô tâm trước những cảnh bình minh rực rỡ với chim kêu hoa nở đang chói rọi trong lòng em.

Em thú thật khi con Hạnh bưng nước qua sở cho cha em, khi nó ngập ngừng trước phòng giấy anh và khi anh hấp tấp dúi bức thơ vào tay nó, em ẩn mình bên cửa sổ nhà em hồi hộp, tay chân em run bắn lên. Nhứt là khi con Hạnh bước vào phòng em, đôi mắt láo liên như một kẻ cắp, ném vào em một chiếc phong bì. Em rối lên.

Tất cả máu trong người em như ngừng hẳn lại để chờ phút chết sống.

Đọc xong thơ anh, em mới như người tỉnh ngủ. Thế là duyên trời đã định anh Long à!

Hai linh hồn từ đây đã được dịp kết hôn.

Anh bảo là anh cũng yêu em.

Em không biết có phải thật lòng anh chăng hay chỉ là một lời an ủi. Dầu sao em cũng cứ tin là thật, thật như lòng em lúc nầy.

Lời thơ anh nó uyển chuyển mềm mại lắm, nó làm em rung động từ sáng đến giờ.

Nhưng hình như trong thơ, anh đã tìm được chỗ để trút cả những cái khốn nạn đau buồn của anh nơi chốn nầy vào đầu em. Nhứt là thơ anh đầy một ý nghĩ hoài nghi buồn chán.

Em chỉ thương chớ không giận vì thật ra đời đáng cho người ta hoài nghi lắm anh à! Nhứt là đối với một kẻ đã từng bị đời dày đạp như anh.

Em muốn nói nhiều, viết nhiều, nhiều nữa họa chăng anh mới hiểu rõ lòng em. Nhưng khổ giấy hẹp mà lòng em dài, vậy nếu anh không chê là mất nết hư thân, mời anh đúng chín giờ tối nay ở lộ Suối Tiên. Em sẽ đến đó cùng anh hầu chuyện.

Đúng hẹn,

Hoàng lệ Ngôn.

Long, lẽ sống của đời em,

Anh là rừng mơ, em là khách mộng. Càng đi sâu vào linh hồn anh, em càng thấy êm ái nhẹ nhàng như bay lên tận từng mây cao ngất với đôi cánh của thiên thần.

Anh ơi! Tại sao thơ thẩn suốt đêm bên Suối Tiên, lang thang trong rừng Trúc Bạc, tay trong tay, vai kề má, anh đối với em vẫn một lòng đứng đắn thật thà?

Sao anh không ôm em vào lòng? Không gì em sát ngực? Không hôn em tím môi để cho cái xác thịt nó tung hoành lôi cuốn anh, vật ngã em, để rồi khi tỉnh cơn mê, em oán ghét anh, em khinh rẻ anh. Và có lẽ nhờ đó, anh sẽ được sống những ngày bình tĩnh yên lành hơn có hơn không?

Bóng tối không che đậy được lương tâm anh.

Im lặng không cám dỗ được dục vọng anh.

Ôi! Anh làm em kính nể quá làm gì để rủi ra có thế nào, lòng ta sẽ chết từng đoạn một.

Em nói thế chớ thật ra không khi nào có. Những kẻ đã biết tạo nên cuộc sống lại dễ gì để cho cuộc sống quật ngã mình. Nếu đã biết yêu, tất nhiên phải biết tự vệ cho tình yêu. Nếu sợ khổ, không gì bằng cứ chà đạp trên cái khổ.

Nếu giàu sang đã làm nên hạnh phúc, nếu phẩm chức đã tăng được giá trị con người thì còn phải nói làm gì! Giai cấp chia rẽ được địa vị, nhưng không phân cách được tình yêu.

Nếu bao nhiêu gông cùm xiềng xích quyết trói buộc em trong vòng trưởng giả, quyết cưỡng bách em trong việc hôn nhân thì anh ơi! Cái thân hình ẻo lả nầy, cái tâm hồn ủy mị nầy cũng có thể biến thành một vóc hình cứng rắn, một tấc dạ hiên ngang để quyết đòi cho được QUYỀN SỐNG của mình, quyền TỰ DO của CÁ NHÂN.

Và nếu cần, sẽ ly dị với bao nhiêu tập quán gia đình cổ hủ.

Em yêu và rất ích kỷ trong tình yêu. Nhứt là không nhìn được cái lối hy sinh nhìn người yêu mình đi làm cuộc đời với kẻ khác.

- Anh ơi! Rừng Trúc Bạc sương nhiều mà ấm, đêm dài mà ngắn, đường gai mà êm.

Có thế chớ! Người ta yêu để được một cái gì.

Nếu không mây nước chỉ là nước mây mà xác thịt chỉ là hiện thân của ô uế.

Cứ ngồi bên Suối Tiên mà nghe tiếng róc rách mà êm đềm của suối, cứ nằm trong rừng Trúc Bạc để say với tiếng nhạc du dương của cỏ nội hoa rừng.

Còn gì nữa để đời đáng yêu, để tình đáng mến!

Khi em nghĩ đến tình ta, em mãi tự hỏi: “Rừng có bao giờ hết lá, suối có bao giờ cạn nước không anh?”

Chúc anh được nhiều mơ trong giấc ngủ.

Lệ Ngôn.

Bích Sơn,

Em về đến nhà em, đồng hồ gõ ba giờ rưỡi khuya.

Cũng may trong ngoài đều im lặng.

Con Hạnh ngồi gát cửa cho em nó ngủ gục lúc nào.

Em phải lay nó mấy lần mới thức.

Trời! nó làm gát dan như thế, có gì phải chết người không?

Ở nhà anh về, từ giờ nãy em trằn trọc luôn đến sáng.

Em suy nghĩ mãi. Sao anh không lấm bẩn thân em đi để một mai có vỡ lỡ, anh cũng không ân hận với tiếng đời.

Làm gì anh cứ mãi gìn giữ em, kính nể em như người bạn quí. Mà giờ phút nầy, ví thử có ai biết được công việc như thế, có thể cho em còn trong sạch được không?

Tâm hồn cao quí của anh bắt em yêu quí anh thêm.

Từ nhà anh, em đã mang về phòng em một ít mùi móc của chiếu mền, một ít mùi hôi của quần áo cũ, một ít lành lạnh của nỗi cô liêu. Anh ơi! Mùi móc ấy, mùi hôi ấy, không khí lạnh cô tịch ấy sao nuôi được một tâm hồn cao quí như anh.

Ở đây, nơi phòng em, nhà cao quá, cửa rộng quá, tủ bàn sang trọng quá, không khí đầy hoa rượu êm đềm quá, nhưng nó lại đày người chỗ xác thịt tầm thường.

Em không muốn nói xấu những người yêu thương trong gia đình em đâu.

Nói xấu làm gì người cha đang an lòng trong địa vi cao sang của quan trường, cứ mải miết trong một cuộc đời ăn ngon mặc sướng với kẻ thưa người dạ!

Nói xấu làm gì một người luôn trong chiếc xe nhà xinh xắn, đến nhà ông nầy bà nọ, để say sưa trong thú đỏ đen cờ bạc suốt ngày, để khi về đến nhà là mắng chưởi om sòm, văng tục với những ván bài quá xấu!

Nói xấu làm gì những anh, những chị ấy, sống không lý tưởng, học để luôn luôn nghĩ tới sự giựt lấy mảnh bằng để rồi cha truyền con nối, tự toại trong sự vinh thân phì da!

Có ai lại đi nói xấu gia đình mình không anh!

Nếu người con gái của thời đại nầy chỉ cần ăn no ngủ kĩ để chờ người ta gả bán cho một ông chồng cao sang quyền quí, như bán chác một con heo thì còn phải nói gì?

Cái thiếu thốn về tinh thần, cái lơ đễnh trong giáo dục của người nhi nữ trong phòng the mới chính là chỗ lo ngại của gia đình. Nhưng mấy ai có thèm nghĩ tới đâu!

Người ta chỉ chờ cho căn bệnh phát ra, rồi một mình tìm thầy hay chạy thuốc dầu thấy nguy thuốc độc mặc lòng.

Con bệnh nó chết đi cũng mặc lòng.

Động có ai nói đến thì người ta chỉ bĩu môi: “Thứ hạng hư hỏng ấy có chết đi cũng đáng kiếp”.

Nhưng em vững tin hay chữ “Đáng kiếp” không bao giờ đến với em được.

Mong anh cũng tin như thế và thân ái chào anh với tất cả hy vọng.

Hoàng lệ Ngôn.

Anh Long ơi!

Mạch rừng tai vách. Lòng ai hiểm độc, rơi thơ chi cho lòng tôi khổ sở thế nầy trời!

Giờ phút nầy, em đang bị giam cầm trong ngục gia đình. Bao nhiêu con mắt tò mò đang đổ dồn vào người em từ tướng đi bộ đứng.

Cả con Hạnh cũng bị nom chừng nghiêm ngặt, em e rồi đây sẽ vắng bặc cánh hồng.

Nếu ai có hỏi gì anh, anh cứ một mực chối từ vì dầu sao cũng chưa lấy gì làm bằng cớ.

Nhứt là giữ mình cho lắm. Lỡ một lời là ân hận suốt đời.

Em đang van xin sự che chở của mẹ em. Lòng dạ đàn bà, nhứt là một người mẹ đối với con có lẽ cũng đến khoan dung tha thứ.

Nhưng có điều cần kíp là anh hãy báo tin về nhà gấp, nói khéo thế nào cho nhà anh đến xin hỏi cưới em. Em biết việc ấy khó khăn vì gia đình anh bị nạn kinh tế khủng hoảng năm xưa làm suy đốn, mà cha mẹ em thì nghĩ đến sự sang giàu.

Tuy khó khăn, song vẫn thành vì lòng người kiên nhẫn.

Anh đừng tuyệt vọng. Gắng sức lên rồi sẽ được thành công.

Anh đừng gửi thơ cho em nữa làm gì vì sẽ có nhiều nguy hiểm. Có tin gì em sẽ liệu cách cho anh hay.

Bình tĩnh và cương quyết,

Em: Ngôn

Anh Long,

Tính ra cũng tháng rưỡi trời, tháng rưỡi trời em đến nhà anh mà không ai hay, tháng rưỡi trời mà chúng ta đã nắm tay nhau đi trong đêm sương khi ở suối Vô Vi, khi bên đồi Thanh Bạch.

Tiếng xe bò lắc lư trên đường vắng, tiếng còi tàu giục giã trong rừng khuya đã quen tai em quá rồi.

Cho nên những khi buồn, em ngồi tựa cửa trông tận chân trời xa. Anh ơi! Biết đâu mây nước là định mệnh cuộc đời em.

Em không muốn như những người phụ nữ lố lăng lúc nào cũng chực than: “Trời! Không ai hiểu tâm hồn mình cả!” làm thân đàn bà con gái chỉ để yêu thương, lo lắng, nào có gì đâu phức tạp cao sâu để đến đỗi có người tìm hiểu mình mới vừa lòng.

Anh ơi! Trót đã yêu anh, em chỉ muốn cho lòng mình thành mây khói bay cao muôn trượng, sâu rộng ngàn trùng để bao lấy vũ trụ với một mùi hương thành tân, để trùm lấy thời gian với một giấc mơ thâm túy. Em không muốn ai phân tách tình yêu ấy. Em không muốn ai giải phẫu tấm lòng em.

Hôm qua, em chơi Cờ Quan. Em hì hục mãi cũng lẩn quẩn ở chân Thơ ký, trong lúc người ta đã đỗ Hoàng Giáp, Trạng Nguyên, con Hạnh nó nhìn em nói khẽ: “Cô ơi! Số kiếp đã định rồi”. Em nhìn nó mỉm cười để bảo thầm: “Nếu chỉ được thế thôi thì thật cũng đã sung sướng!”

Lạy trời cho em giữ được chân Thơ ký. Công hầu khanh tướng xin nhường lại cho ai.

Rất yêu và tin tưởng ở tương lai.

NGÔN.

Long,

Anh lại mạo hiểm thế nào mà vào được nhà em. Anh không biết có lính canh phòng nghiêm ngặt à? Sao anh liều lĩnh quá thế? Lỡ có bề gì rồi mới làm sao?

Cái khăn tay em để lại dưới nhà anh làm sao nó lọt được vào cửa sổ phòng em. Sáng lại, em thấy chiếc khăn ấy nằm dưới cửa sổ mà kinh hồn hoảng vía.

Tình yêu làm cho người ta khinh nguy hiểm, thắng gian lao. Nhưng thôi anh đừng liều lĩnh như thế nữa làm em lo ngại quá.

Anh nên biên thơ về nhà gấp để tìm cách giàn xếp cho xong.

Lòng em vẫn trung thành và có lẽ lòng anh cũng không đến thay đổi.

Đừng vì lòng tự ái quá nặng của một thanh niên mà để em khổ sở suốt đời.

Từ giờ, anh cứ lặng yên như không việc gì xảy ra.

Thương em mà nhịn dầu ai có cường quyền áp chế.

Thương em mà nhịn, lần chót xin anh nhớ cho.

Hy vọng một ngày tươi sáng gần đây.

Hoàng Lệ Ngôn.







IX

Ngày 2-7-1944

Quyển nhật ký nầy từ khi ở trường ra lại bỏ dở. Đáng lẽ lúc bước chân lên đường đời, nó phải nặng những trang chữ mới phải. Vì lúc ở trường cái xã hội nho nhỏ ấy còn trong sạch quá, còn ngây thơ quá, có gì đáng kể đâu.

Có đáng nói chăng là khi đã nếm mùi vị của cuộc đời thực tế, đầy ngang trái, đầy phẫn uất, đầy bất công, đầy dối trá đê hèn.

Thế mà Long lại bỏ quên, bỏ quên người bạn đầu nằm, chỉ vì Long có một lòng tin tưởng vô cùng đẹp đẽ ở cuộc đời, có một lòng hy vọng hết sức mãnh liệt ở một tương lai rực rỡ.

Bao nhiêu những nỗi khó khăn phản trắc mà Long đã gặp, Long vui lòng coi nó là sự nhỏ nhen, không đủ hiệu lực làm ngăn chí tiến thủ của mình.

Nhưng hôm nay, bất giác, mình lại thấy cần trở lại với trang nhật ký. Đó không biết có phải là một nét ngờ vực đầu tiên trong đường đời để cho mình khám phá lần lần cái mặt thật của xã hội chăng?

Bao nhiêu những nỗi oán hận của J. J. Rousseau đối với cuộc đời, bao nhiêu những lời thóa mạ của Rousseau đối với văn minh, thường trong lúc còn ngồi trên băng ghế nhà trường, mình đã nghĩ ông ta là ngụy biện.

Bây giờ mình mới thấy những sự hằn học của Rousseau lắm khi rất hữu lý, mà chính mình chưa xứng đáng với lớp đồng ấu của trường đời.

Ngày 4-7-44----

Bữa nay, ngồi trong phòng giấy như ngồi trên đống lửa. Mình chỉ trông cho quan quận ngài gọi đến tên và hỏi về việc của Ngôn thì mình đĩnh đạc trả lời.

Mà mình lại sợ gì. Nào có phải tự mình cố tâm gây nên tội lỗi đâu.

Nếu ông ta tử tế gọi mình vào để ông ta hỏi thật sự tình và êm ái bảo mình lo thu xếp. Dầu ông có quá lời nặng nhẹ, mình cũng cố vì Ngôn dằn lòng tự ái để tính việc vuông tròn.

Đằng nầy không, cái gì mà ông ta lại ngồi lì ra, mím môi lại, mắt đỏ ngầu như một người cuồng tâm.

Ông không hỏi mình một tiếng, không nói mình một câu, làm như ông không hay biết gì cả.

Có lẽ ông ta đang âm mưu việc gì đây chăng?

Ngày 5-7

Thì cứ âm mưu đi. Cùng lắm cũng đến lôi thôi kiếm chuyện để xin đuổi, mình có dịp lìa bỏ chốn quan trường.

Nhưng còn Ngôn?

Ngôn sẽ đi một nơi nào xa lạ không?

Hay Ngôn sẽ ở lại đây với những ngày tủi nhục đau buồn?

Ngày 7-7-44-----

Ủa! làm gì mà mớ tóc Ngôn lại bị cắt đi đến tận gáy.

À! Hay là người ta cho có một bàn tay đã lấm bẩn mái tóc huyền ấy rồi.

Mà từng cử chỉ nhỏ nhặt ấy để làm gì mới được chớ?

Phải chăng để cảnh cáo ta nên tìm lối thoát thân?

Không. Ta không thoát thân, ta cũng không tiến tới bao giờ đối phương chưa đụng chạm đến ta.

Ngày 8-7-44 --------

Anh Tà! Anh của Ngôn.

Anh ta đang làm gì mà qua lại mãi trước nhà ta. Anh muốn gây sự với ta chăng?

Ồ! Anh Tà! Anh ấy lực lưỡng nhỉ!

Phải. Con ông cháu cha ăn sung mạc sướng, dễ thường có lo nghĩ gì mà chẳng cao lớn đẫy đà.

Nhưng thôi. Nói làm gì những anh còn cắp sách tới trường, còn đầy một lòng háo thắng vô căn cứ ấy.

Mình chỉ cần nhớ: “Anh Long! Anh nhịn là anh yêu em đấy”.

Được rồi. Tôi vui lòng nhịn đấy! Còn bao nhiêu trò nữa cứ diễn ra nốt đi.

Ngày 9-7-44.---

À! Còn bà nầy nữa! Bà mới kiêu hãnh làm sao!

Ai đời đi đánh bài với hàng xóm mà lại khoe: “Chị tôi là Tấn Sĩ Đốn, em năm tôi là bà Bác Vật Mạt, em sáu tôi là bà Tham Tá Khuyển, còn em bảy tôi có vợ là bà Bào Chế Dương. Tôi không biết nhà tôi nhân đức thế nào mà cả nhà anh chị đều nên danh phận cao sang quyền tước.

Còn con Tám tôi sau nầy không biết ra sao chớ tôi quyết không gả nó cho hạng Cử Nhơn, Tấn Sĩ, thì tốt hơn nó muốn thành chó điếm gà đàng gì mặc nó. Tôi thậm ghét cái thứ dở dở ương ương suốt đời cứ thầy nầy thợ nọ.

Được rồi, cứ hy vọng lên đi bà quan ơi!

10-7-44------

Sáng nay đi lên sở, nhìn thấy Ngôn đang chăm chỉ nhìn mình qua chấn song cửa sổ như khẩn khoản một điều gì.

Mình vừa dừng chân lại để xem coi đôi mắt nàng muốn nói gì. Nhưng thoáng thấy bóng người, mình lại bước luôn.

Thôi thế là từ nay đành bặt tin.

Ngày 13-7-44.---

Lạ quá! Mấy ngày rồi chờ mãi mà không thấy quan ngài nói gì mình.

Có ai thấu rõ cái rạo rực băn khoăn tự nó ghê hồn nằm trong cái im lặng không? Cái rạo rực băn khoăn ấy tự nó ghê gớm hơn cái xáo trộn ầm ĩ khi mọi sự đều nổ bùng ra.

Ngày 14-7-44—

À! Có thế chớ!

Cái gì phải đến đã đến. Tưởng gì lạ chớ không dè cũng chỉ việc con con.

Nhìn đồng hồ thấy 2 giờ kém mười lăm, mình thu xếp giấy má trên bàn để chút nữa đi về. Kế có người lại xin một cuốn sách ghe mới. Mình bảo anh ta trưa mai sẽ lại lấy thì anh nói cần sắp xếp vì nhà ở rất xa. Mình nói nếu xa thì mình sẽ gửi về làng, rồi làng sẽ cho thường xuyên giao lại. Nhưng anh ta cứ nào nỉ mình làm thật gấp dùm vì khuya nay anh sẽ lui thuyền đi buôn và lâu lắm anh ta mới có dịp trở về.

Mình lại ôn tồn bảo y: “Tôi không muốn làm khó dễ gì anh. Bổn phận tôi là phải làm bất cứ những chuyện gì hợp pháp mà người ta đòi hỏi. Tôi có thể làm cho anh ngay vây giờ nữa, nhưng quan lớn mỗi ngày một bận vào lúc 11 giờ sớm mai thôi, thì anh có nói với tôi bao nhiêu nữa cũng vô ích.

Tôi có làm ngay thì cũng 11 giờ ngày mai quan lớn kí tên xong anh mới lấy về được”.

Người ấy tha thiết khẩn cầu phải tốn một số tiền thông lệ là tiền nước.

Mình chỉ mỉm cười.....

............(kiểm duyệt bỏ ba dòng --- Ghi chú của NVS)............
..................................................................................................

Sự tình đã vậy, may cho mình là còn một chút lương tâm, dầu có một cái lương tâm dại dột.

Một lần nữa mình lại ôn tồn: “Anh không cần tiền chi đóng góp cho tôi cả vì chính phủ đã trả lương cho tôi để làm việc cho mọi người. Tôi không có quyền đòi hỏi công lao với ai cả. Nhưng quan lớn đã không chịu kí tên ngoài giờ, ngài đã nhứt định thì anh có nói lắm cũng bằng thừa”.

Nhưng lại một lần nữa, anh ta nhứt quyết: “Như thế, thầy cứ cho tôi vào cúi xin quan lớn coi ngài dạy thế nào”.

Mình vẫn nhã nhặn: “Thì anh cứ vào. Tôi có quyền lực gì ngăn cấm anh đâu. Nhưng tôi tin chắc rồi anh cũng sẽ được một câu trả lời tương tự như thế, mà nếu có rầy la thì anh đừng buồn tôi”.

Anh lái thuyền đẩy cửa bước vào phòng văn quan ngài.

Lúc ấy quan ngài đang viết thơ về đồn điền cà phê và bông vải của ngài ở Bàrịa. Có lẽ ngài đang tính toán công việc và căn dặn người quản điền nhiều lắm, nên thấy người lạ mặt vào phòng là ngài phát cáu lên.

- Thầy Long

Long dạ một tiếng thật to, rồi bước vào. Nhưng quan lớn đã hét lên:

- Thằng đó nó muốn gì?

Mình chỉ lễ phép thưa:

- Anh ấy chỉ muốn thay sách ghe mới.

Rồi quan lớn lại sừng sộ lên bằng tiếng Pháp:

- Có thể mà thầy cũng giải quyết được lại làm phiền đến tôi.

Mình đã phân minh cặn kẽ tại sao anh lại đòi vào phòng văn quan ngài. Quan lớn không dám rầy rà anh dân đen cứng đầu ấy thì thôi. Đàng nầy ông lại nổi thịnh nộ lên mình:

- Ai cho phép y vào đây?

- Không ai cho phép y cả. Vả lại tôi cũng không có quyền cho phép y hay không cho phép y.

............(kiểm duyệt bỏ ba dòng --- Ghi chú của NVS)............
..................................................................................................

- Được rồi.

Ngồi suy nghĩ một phút, ông lớn giọng tiếp bằng tiếng Pháp:

- Nhưng sao thầy lại không làm cho người ta?

............(kiểm duyệt bỏ hai dòng --- Ghi chú của NVS)............
...................................................................................................

- Nếu tôi làm ngay thì cũng đến mai mới có vì tôi chưa từng thấy ngài ký tên buổi chiều bao giờ.

- Thầy cứ làm ngay cho người ta.

Từ nãy giờ cố nhịn, mình không thể dằn lòng căm tức được nữa. Quan chủ quận chỉ nói với mình bằng tiếng Pháp, anh lái thuyền nào có hiểu gì đâu. Thế nào mình làm xong, về nhà, anh ta cũng chửi thầm vào đầu mình: “Rõ là bọn bất lương, nó nói quan lớn không ký tên. Mà chừng mình vào thì quan lớn bắt nó đi làm ngay cho mình. Có phải nó muốn làm khó dễ để ăn tiền không?”

Tuy nhiên mình thấy lòng tự ái mình bị thương tổn.

Mình không dằn nổi cơn tức, trả lời to với ông ta:

- Được rồi. Từ nay về sau, cứ có giấy tờ gì là tôi đưa vào ngài ký tên ngay vì ngài đã phản bội những điều lệ mà mình đã đạt ra.

- Thầy không được cải lời tôi.

- Thì nào tôi có cải đâu. Tôi đi làm ngay, nhưng ông sẽ đừng hối hận vì đã xử tệ với tôi.

...................................................................................................
...................................................................................................
...................................................................................................

- Được rồi. Thôi thầy cứ ra.

Mình vừa bước chân ra khỏi phòng văn, trống nhà hầu cũng đổ mãn giờ làm việc.

Tiếng trống đều đều bắt đầu bằng hai tiếng khoan thai, để rồi rút nhanh trong buổi trưa nặng nề ấy làm cho mình linh cảm đây là giờ phút cuối cùng mình trong kiếp quan trường.

Mình đang phân vân về kết quả của cuộc đấu khẩu ấy buổi trưa thì buổi chiều lại, quan ngài mời mình để tiếp tục câu chuyện.

Ông ta hết sức nhã nhặn mời mình ngồi xuống ghế, rồi êm ái như không có chuyện gì lôi thôi giữa ông và mình.

- Thầy Long! Có lẽ kỳ Tú Tài của thầy sắp đến rồi. Và nếu không lầm, thầy sẽ nhân cơ hội mà thoát ly đời công chức.

- Dạ phải. Nhưng đó là chuyện riêng của tôi.

- Chuyện riêng của thầy đã đành. Nhưng lại là chuyện chung của chúng ta.

- Rất cảm ơn tấm lòng tốt của ông. Nhưng làm gì ông lại có ý nghĩ đến sự dự tính của tôi một cách nhân từ như thế?

Mình nghe ông ta đánh vào chỗ yếu của mình lại ngỡ là ông ta tính đến chuyện tình duyên của mình và Ngôn và lầm tưởng rằng ông ta đang nghĩ đến việc hòa bình. Mình đang băn khoăn về chỗ bỗng nhiên ông ta lo lắng cho mình, thì ông ta lại tiếp:

- Vì thấy kì thi sắp đến, lại cũng nghe nói thầy thức học suốt đêm nên tôi ngại cho sức khỏe của thầy vì sức khỏe của thầy tức là sức mạnh của xã hội, của Tổ Quốc.

Mà lo sợ sức khỏe thầy, không gì bằng để cho thầy tự do học tập ban ngày.

Sự tử tế triệt để của quan lớn lại càng làm cho mình sửng sốt hơn vì mình cũng thừa rõ thế nào là lòng dạ hiểm sâu của quan chức cao cấp ấy. Nhưng quan lớn lại càng thân mật hơn:

- Từ nay trở đi, thầy không cần phải đến sở nữa. Thầy cứ yên trí ở nhà học tập cho đến ngày đỗ đạt. Bao nhiêu công việc thầy, tôi sẽ giao lại cho người thơ ký phụ trách làm thay thầy. Bao giờ thi xong, thầy sẽ được tôi xin cho thôi việc và tự ý đi học thêm.

- Cám ơn ông. Nhưng tôi e như thế sẽ bất tiện, vì lẽ tôi không có quyền nghỉ một cách bất hợp pháp như thế.

- Tại sao lại bất hợp pháp. Thầy cứ để đây một cái đơn xin thôi.

- Tôi rất sẵn lòng. Nhưng liệu có dễ gì được chăng?

- Tôi sẽ vận động cho thầy với tất cả lòng sốt sắng của tôi thì làm gì lại không được.

- Như vậy tôi tin ông. Nhưng tôi tưởng tốt hơn tôi cứ đợi cho phép thôi việc xong xuôi rồi sẽ nghĩ cũng không muộn.

- Nhưng ngay bây giờ tôi không muốn thấy mặt thầy ở đây nữa thì thầy bảo sao?

- Tôi chỉ thật thà nghĩ rằng ông không muốn điều ấy cũng không được. Đành rằng tôi làm việc dưới quyền sai khiến của ông nhưng người có thể bảo tôi làm hay nghỉ là Thống Đốc Nam Kỳ, người mà chính tôi đã chịu mạng lịnh để đến đây.

- Nhưng bây giờ tôi không muốn thầy ở trong dinh của tôi nữa.

- Tôi không biết phải nói với ông thế nào để ông hiểu nhiều hơn. Nếu đã có một nghị định bắt buộc tôi phải đến đây, tất cũng phải có một nghị định bắt buộc tôi dời đi nơi khác.

- Tôi không cần nghị định.

- Như vậy ông là người đại diện cho Trật Tự và Công Lý lại phản Trật tự và Công Lý hay sao?

............(kiểm duyệt bỏ ba dòng --- Ghi chú của NVS)............
..................................................................................................

- Đó là tôi nói với thầy với tư cách là một người bạn.

............(kiểm duyệt bỏ một dòng --- Ghi chú của NVS)............
...................................................................................................

- Thầy nên im lặng nghe tôi thì tốt hơn. Tôi không muốn cư xử với thầy theo một kẻ bề trên. Thầy ở đây không lợi lộc gì cho thầy mà lại rất phiền cho tôi. Vậy tôi cam đoan với thầy tất cả danh dự của tôi.

............(kiểm duyệt bỏ ba dòng --- Ghi chú của NVS)............
..................................................................................................

Không muốn ăn thua với mình cho rộn chuyện, ông lại vui vẻ tiếp:

- Tôi sẽ cam đoan với tất cả danh dự của tôi:

Sẽ để cho thầy yên tâm ở nhà đặng học thi.

Sẽ cho phép thầy nghỉ tạm đến khi thầy được giấy cho thôi thiệt thọ.

Sẽ đích thân vận động cho thầy được phép thôi việc sớm.

Và nếu thầy cần lương bổng để sống trong lúc nghỉ tạm nầy, tôi cũng sẽ cho mượn lương đến ngày thầy được nghỉ thiệt thọ. Chỉ có một điều tôi yêu cầu thầy, là thầy nên lập tức đi khỏi chốn nầy cho tôi được sống yên ổn hơn.

- Như vậy, tôi tin ở sự vận động đắc lực của ông và cứ nội ngày mai, hay trễ lắm là sáng mốt, ông sẽ được như ý.

Thế là xong.

Màn chót đã từ từ hạ.

Nhưng khán giả bước chân ra khỏi rạp còn băn khăn không biết Long sẽ thế nào.

Long còn ngồi viết đây các bạn ạ!

Như thế các bạn không phải lo ngại số phận của Long dưới sự trả thù của quan ngài.

Và Long cũng nghĩ tấm kịch hết là hết, Long đi là xong.

Mà cũng cầu trời để rồi không ai phải lụy đến ai.

Long mất một chút danh thơm, những vẫn còn trong sạch.

Lòng ta một trời ân ái, những vẫn còn chút yêu đời.

Ngày 17-7-44---

Chiều nay khi thu xếp đồ đạt vào rương xong, mình ra ngồi chơi trước cửa.

Anh lính Hát thường ngày có ưa gì mình đâu. Thế mà hôm nay, anh đi về ngang phố nhà mình, anh hỏi:

- Thầy ký hình như tính đi đâu chơi xa sao mà dọn dẹp đồ đạt hết vậy?

Mình chỉ mỉm miệng đáp:

- À! Bộ anh không hay gì sao? Tôi đã nghỉ việc ở đây từ hôm qua rồi kia mà.

Anh ta vờ ngạc nhiên mở to đôi mắt nhìn mình:

- Thật vậy à! Chết chưa! Nào chúng tôi có hay gì đâu. Thầy ở đây thiệt là hết sức tử tế. Mọi người đều mến phục thầy.

Mình bỗng nhiên rùng mình. Mình ghê tớm cái dối trá đểu giá của loài người ẩn trong những câu nói nhân từ như thế. Nào anh lính Hát có thương mến mình đâu. Chẳng qua anh ta là viên thám tử đặc biệt của quan lớn sai xuống dò xem coi chừng nào mình định bỏ đi đó thôi.

Người ta khéo đóng trò quá nhỉ!

Sau cái thở dài làm ra vẻ não ruột, anh lại nói như than:

- Thầy đi thật uổng. Thật ra tôi chưa từng thấy một thầy ký trẻ đứng đắn, hiền hậu và tử tế như thầy.

Mình thấy khó chịu với cái lối xó chua chát ấy, mình mỉa mai:

- Giá đúng như lời anh nói thì tôi có phải đi khỏi chốn này đâu. Nhưng thôi anh nhắc làm chi cái đã qua vô ích ấy.

Hình như còn tiếc vì chưa đủ làm khổ mình, anh ta lại tiếp một cách vô duyên:

- Thầy đi gấp quá. Có lẽ không ai hay. Chớ đã hay thì có lý đâu chúng tôi chẳng ít thì nhiều chung đậu lại một số tiền để tiễn thầy đi.

Lần này thấy cái đểu giá của anh lính Hát nó rõ rằng quá, mình phát cáu lên dằn từng tiếng một:

- Anh đừng lôi thôi. Anh đừng làm ra trịnh trọng những cái gì nó không vẻ trịnh trọng một chút nào. Sư thay đổi nầy có quan hệ đến ai đâu mà phải tiễn với đưa, phải tùng với tiệc.

Thật ra anh lính Hát chỉ làm một việc thừa vì anh nhắc cho mình thấy sự cô lập của mình ở chốn nầy, điều mà mình đã cảm thấy rõ rệt khi mình vừa bước chân đến đây.

Có lẽ anh lính Hát hài lòng với những lời chua cay độc địa của anh lắm. Nhưng vẻ mặt lạnh lùng thản nhiên của mình đối với sự việc thôi việc cũng đủ biểu lộ sự khinh rẻ những cái mà nơi đây, hiện thời người ta cho là quan trọng vĩ đại.

Và có lẽ không ai có công đi tiễn biệt một người vô phước sanh ra dưới vì sao “Giang Hồ”.

Ngày 17-8-44---

Mai nầy mình đi.

Mình đi cũng như bao nhiêu lần khác, với một chút hy vọng trước khi tới, và một ít buồn thảm trước khi đi.

Hôm nay mưa nhiều. Có lẽ trời đất động lòng vì cảnh cô đơn tan nát của lòng mình mà sụt sùi sa lệ chăng?

Mưa nhiều đi, mưa nữa đi, để gọt sạch lòng ta trước khi lên đường để lập lại một cuộc đời.

Tôi không tiếc gì nữa! Tôi không buồn gì nữa!

Mưa nhiều buồn lắm. Nhưng người đi nào có sợ chi buồn!







X

Long vừa bước chân vào nhà, đồng hồ gõ bảy tiếng. Tất cả anh em đều tề tụ đủ chung quanh bàn ăn dùng bữa cơm tối. Có anh Hiển làm việc sở Tài Chánh này, có anh Điềm làm ở sở Trực Thâu này, có anh Sĩ làm sở Thương Chánh này, có anh Cu làm việc Trường Tiền này, có anh Hương thất nghiệp chuyên môn này và có cả anh Hương, anh bà con của Long mà hàng chợ đen đều quen mặt.

Có điều không ai bảo ai là lúc Long vừa bước vào nhà, tay xách đàn, tay cầm chiếu, thì họ cười ầm lên:

- À! Chắc thằng Long bị đuổi rồi tụi bây ơi!

- Bộ mầy bị đuổi rồi hả Long?

- Sao ngay nay ngày làm việc mà mầy lại về được Saigon tài tình quá Long?

- Mầy đi đâu mà đến tối quá vậy Long?

Trước bao nhiêu câu hỏi ồ ạt chen lẫn với tiếng cười chế nhạo của các bạn, Long không kịp và cũng không muốn trả lời cho ai. Nhưng thấy dáng điệu khổ não mệt nhọc của chàng, ai cũng tin chắc rằng chàng bị đuổi.

Chàng rất khó chịu trước những lời đùa giỡn độc ác của các bạn trước sự khổ sở của chàng. Nhưng chàng cố đằn lòng vì chưa muốn gây sự ngay với các bạn chỉ thừa những câu chuyện lôi thôi của chàng mà chế diễu. Chàng bước ra phụ với người phu xích lô khiên rương vào nhà. Rồi chàng đi thẳng ra sau bếp lấy chén đũa ra kéo ghế ngồi ăn chung với họ.

Đối với mấy lời vồn vã của mấy bạn, chàng chỉ lẳng lặng ăn, không buồn trả lời một tiếng cho ai cả. Chàng nghĩ dẫu sao họ biết tình cảnh mình hiện thời cũng không ích gì. Trái lại, họ sẽ tăng thêm sự nhạo báng. Vì họ là những công chức hoàn toàn, vì họ là những người bằng lòng với những cuộc đời nhỏ hẹp của một chân thơ ký, nên lúc nào họ cũng coi Long như cây đinh trước mắt với sự bất mãn rõ rệt của Long trong chốn quan trường.

Họ cho rằng Long chỉ có thể sống một cuộc đời văn sĩ lang thang, chớ không bao giờ có một cuộc đời đàng hoàng, có đủ tư cách của một công chức kiểu mẫu như họ.

Long vẫn biết thế. Nhưng Long vẫn phải về tá túc ở nhà nầy, vì dầu sao, mấy bạn chàng vẫn đầy một lòng tốt có thể tạm gần gũi được.

Long không oán giận các bạn với sự chế diễu của họ. Trái lại, Long thấy thương hại họ vì họ đã vui lòng giao phó cuộc đời họ cho bốn bức tường vôi để mỗi tháng chỉ được ngửa tay nhận năm bảy chục bạc vừa đủ trả tiền cơm tháng.

Hơn nữa, Long lại thấy tự bằng lòng lấy mình vì đã được bị bắt buộc phải nghỉ việc, cái việc mà hoàn toàn chàng không thích được chút nào.

Vả trong đám bạn bè cùng nhà ấy, Long vẫn có thể tự an ủi được vì dẫu sao cũng còn có Sĩ là một nhà văn. Giá Sĩ cứ vui lòng như bọn Hiển, Điểm thì họ sẽ không bao giờ chỉ trích Sĩ. Đằng nầy, Sĩ lại không thích làm thơ ký hơn làm văn.

May cho Sĩ là “bu rô” chàng rất ít việc cho nên ai đến sở Thương Chánh kiếm Sĩ thì mười lần họa chăng mới gặp được một lần. Còn thì thường Sĩ chỉ ngồi tiệm nước nói chuyện văn chương với các bạn quen.

Bao nhiêu tiền lương của chàng chỉ dành cho bọn chệt tiệm nước hưởng. Có khi tiền uống nước lấn át cả tiền cơm tháng. Những khi ấy, muốn bù vào lỗ trống, tất nhiên tiệm cầm đồ sẽ được thêm một cái quần hay một cái áo cũ. Mà cái quần hay cái áo vào tiệm cầm đồ thì chỉ làm khổ những món đồ khác của thiên hạ với mùi hôi đặc biệt của nó.

Nói về cái bề ngoài, ai cũng phục Sĩ về sự thiếu vệ sinh. Cái áo đối với chàng không có bề mặt hay bề trái.

Trong ngoài vẫn là vải nên Sĩ không cần chú ý, chỉ cần được mặc vào mình xong thì thôi.

Càng không chú ý hơn là sự thay đổi quần áo. Hình như Sĩ nghĩ rằng có thay đi rồi nó lại càng dơ. Mà mỗi lần giặt là một lần phiền phức cho hai bàn tay nghệ sĩ của Sĩ.

Cả cái ghế bố của chàng cũng dơ dáy như nùi lau. Và nội nhà ai cũng tuyên bố cấm chiếc ghế bố của Sĩ thân thiện vì họ lo sợ cái thứ rệp của văn sĩ nuôi nó hay tha phương cầu thực lắm.

Có một điều mà ai cũng chán ghét chàng là mười đêm như một, chàng vẫn để đèn sáng đọc sách đến 2, 3 giờ khuya. Có khi đọc chán, Sĩ lại cặm cụi viết trong lúc mọi người còn ngủ.

Cả nhà đã bực với cái sống cẩu thả của Sĩ, nay lại phải chung chạ thêm với Long, họ rất bực mình. Vì Long tuy không ở dơ, không thức khuya, không chứa rệp như Sĩ, nhưng lúc nào tư tưởng chàng cũng đối chọi với tất cả các bạn cùng nhà.

Long thừa lúc bị bắt buộc nghỉ việc nầy, sữa chữa lại tập thơ chàng. Và sau khi đã điều đình với một người bạn, chủ nhà in, chàng đã nhứt định xuất bản tập thơ.

Bao nhiêu tiền bán được về tập thơ, Long đã cùng Sĩ gửi lần vào quán nước. Lắm lúc, Long thấy cần nhịn ăn nhịn xài, dành dụm tiền bán sách để có đủ tiền in quyển khác.

Nhưng nay phải ngồi quán với Sĩ, mai phải đi ăn với mấy người bạn thân cho nên sách hết là tiền cũng hết.

Mà mấy cuốn sách Sĩ chạy tiền in ra sau cũng chịu một số phận khắt khe không kém. Hơn nữa, bao nhiêu tiền Sĩ in sách không phải là tiền Sĩ có sẵn. Sĩ phải vay với một số lời thật nặng của một bà thợ may gần nhà. Đến khi sách hết, tiền hết, chủ nợ thì cứ èo sèo, Sĩ phải đành cất gói lên đường để khỏi phải rầy tai vì bà ta văng tục.

Sĩ phải dời về một gốc hẻm đường Duranton và dấu hẳn địa chỉ để không ai tìm ra, trừ có Long biết.

Khi Sĩ ra đi, Long thấy mình cô lập. Làm sao Long có thể chịu đựng nổi những lời phỉ báng chua cay của bạn bè cùng nhà. Cho nên chỉ vài hôm sau, Long cũng đến nói với Sĩ điều đình cho Long trọ luôn ở đấy.

Từ đấy Long và Sĩ được tạm yên.

Sĩ đi làm việc, Long ở nhà làm văn.

Và những khi Sĩ ở sở về là lúc có những cuộc đấu khẩu văn chương xùi cả bọt mồm bọt mép.

Sĩ lúc nào cũng cho mình già dặn, lúc nào cũng cần thấy phô trương cái học lực khá giả của mình, cái tài đọc sách ngoại quốc rất nhiều của mình. Tóm lại, lúc nào Sĩ cũng tự cho mình cái vẻ học giả.

Long thì cho rằng sự học muôn trùng, mà cái biết của người có một. Ta không nên lấy làm tự đắc mà gọi một hạt bụi trong sa mạc là to.

Long không từ chối thực học vì thực học là cái chìa khóa mở kho tàng quí báu văn chương. Đọc đến câu văn nào của những người bạn văn mà chàng biết không có học thức cao, chàng cũng chê: “Rõ rằng là bọn tài hoa vô học”.

Long không chịu được cái quan niệm hẹp hòi của Sĩ và không tiêu thụ được lối hành văn khô khan như đất nẻ của Sĩ. Nhứt là Long không thích lối vá qua vá lại một cách rườm ra, những tư tưởng mượn Nhật, mượn Nga.

Do đó thường có những cuộc cãi vã ồn ào giữa Sĩ và Long nhưng tình bạn dẫu sao cũng không vì đấy mà phai nhạt.

Sự chung đụng ấy kéo dài đến một hôm, Long và Sĩ bắt buộc phải ly dị nhau.

Nguyên do cũng tại Long đôi lúc lang bang dạo phố, Long gặp những người bà con ở tỉnh lên. Người ta ngạc nhiên không biết tại sao Long đang làm ở tỉnh X....lại được thung dung trên những vỉa hè thành phố Saigon.

Câu chuyện ấy đến tai cha Long nên cha Long đã quyết lên Saigon để biết thiệt hư tự sự.

Ông lên Saigon mấy hôm những vẫn chưa tìm ra manh mối. Long cũng không hay biết gì về việc ấy để triệt để tản cư. Đến ba hôm sau, ông đến nhà người bà con của Long điều tra kĩ mới biết Long hiện đang lưu trú ở ngõ hẻm Duranton.

Sợ bắt sẩy một con chim trời đang say sưa mây nước, vừa gặp Long là cha chàng kéo ra xe ngay bảo đi Chợ Lớn ăn cơm.

Lâu lắm rồi, cái mùi mỡ, mùi ớt, mùi tiêu, mùi lạp xưởng của những cao lâu trứ danh ở Chợ lớn không bén mũi chàng. Cho nên, quên những quan hệ sắp xảy ra đến chỗ mình, Long chỉ lo phồng mũi hô hấp mùi thơm bát ngát của những thức ăn. Chàng quên mất cái vẻ mặt cứng rắn đầy oán trách của cha chàng đang nhìn chàng.

Động lòng vì sự chết đói rõ rệt của Long, cha chàng dịu nét mặt để chàng thong thả ăn như không có việc gì xảy ra.

Nhưng khi những á xẩm mang khăn tẩm nước nóng và nước hoa đến cho chàng lau tay, cuộc phóng vấn của cha chàng mới bắt đầu:

- Tao muốn biết tại sao mày lại được thong thả ở Saigon làm sách viết báo.

Sau khi Long cẩn thận thuật lại tỉ mỉ những việc xảy ra ở tỉnh X...., cha Long kết luận:

- Chung qui cũng tại nơi mầy.

Long tưởng sau khi giải rõ nỗi uất ức trong lòng Long, có lẽ cha chàng cũng buông xuôi cho một lời an ủi. Không ngờ ông lại trút cả tội lỗi lên đầu Long. Biết rằng mình sẽ bị tấn công già hơn, Long chỉ nhỏ nhẹ:

- Đành rằng cũng một phần tại nơi con. Nhưng dầu sao, con tưởng người ta cũng không đến nỗi tàn ác với con như thế.

- À! Như thế chưa thật là tàn ác như mầy nói đâu. Người ta còn trở trái làm mặt, thưa mầy bỏ sở làm, còn bắt mầy bỏ tù nữa là khác. Như vậy người ta vẫn còn nhân từ đối với mầy lắm đấy!

Long muốn lộng vàng hai tiếng “NHÂN TỪ” của cha chàng vừa thốt. Thật ra như thế người ta đã là nhân từ lắm sao?

Hay che mặt lại đi! Đời ơi! Mi làm gì mà đến cái xấu xa của mi nhân loại cũng còn cho rằng tốt được.

Ăn cơm xong, cha chàng bảo chàng ra xe về khách sạn.

Cha chàng giận chàng nhiều lắm. Ngồi trên xe từ Chợ Rẫy về Saigon, ông ta không thèm nói tới mặt Long một tiếng nào.

Chàng cũng biết thân phận mình. Chàng im lìm nhìn ra hai bên đường.

Trời muốn mưa nên tuy còn sớm mà hai bên hè phố đã vắng bóng người lắm.

Ánh đèn điện hai bên đường lờ mờ tỏa xuống, thỉnh thoáng chỉ soi bóng một người sợ mưa hấp tấp về nhà hay một lữ khách còn ngập ngừng chưa biết lát nữa sẽ ngã lưng nơi đâu.

Chiếc xe thỉnh thoáng chạy nhằm những lộ trũng, bắn những loạt nước bùn mưa động trên đường và vô tình lắc mạnh Long vào mình cha chàng.

Long giựt mình. Chàng lùi lại vì sợ đụng chạm ấy sẽ làm cho cha chàng có dịp gợi chuyện những chuyện mà chàng không muốn nghe và cũng không muốn bàn đến bao giờ.







XI

Nằm dài trên chiếc giường Hồng Kông ở khách sạn Xuân Đào, Long với tay lấy điếu thuốc trên bàn toan đánh diêm hút. Nhưng chàng lại ném mạnh điếu thuốc xuống sàn gạch. Bực tức vì khói thuốc không làm cho tâm trí chàng được nhẹ nhàng thư thả.

Trái lại, sau năm điếu thuốc liền, môi chàng cay, lưỡi chàng đắng, cổ chàng khô. Cùng một lúc, bao nhiêu tư tưởng chán đời hội tụ lại đầu độc linh hồn chàng.

Cái gì ngần ấy chuyện bất công đã gây loạn đời Long, giết hại tim gan Long. Rồi bao nhiêu những chuyện buồn rầu, những điều tủi nhục, một mình Long đón lấy cả. Bao nhiêu người làm khổ Long, Long vui lòng chịu lấy vì họ là những người xa lạ. Long chỉ còn những người thân mến trong gia đình chàng hiểu rõ nỗi lòng chàng, đem lại cho chàng chút ít an ủi vỗ về để chàng gượng gạo vui lòng trả nợ kiếp sống. Nhưng bao nhiêu người ấy đều đổ lỗi cả về chàng, mắng rầy chàng, chê trách chàng và coi chàng như một kẻ cuồng tâm.

Hỡi bao nhiêu mùi tanh hôi tẩm bẩn chiếc nệm của khách sạn nầy! Hỡi bao nhiêu những cuộc ái ân ô uế còn phảng phất mùi tử khí trong căn phòng nầy! Hỡi tất cả những thứ vi trùng nguy hiểm sanh sản trên chiếc giường nầy! Hãy chui cả vào tim phổi gan óc chàng đi! Để chàng thành một thằng điên, một kẻ bệnh tật ngặc nghèo từ thân thể đến linh hồn. Như thế họa chăng chàng mới có thể nhìn nhận bao nhiêu kẻ lạ xa, bao nhiêu người thân thuộc của Long đã xử với Long như vậy là rất công bằng và rất nhân đạo như người ta đã tự phụ.

Long thật ra không phải là một hạng người bất mãn, ở đâu, lúc nào, cũng coi mình như một kẻ bị đày.

Không. Long yêu đời lắm.

Long yêu từ cánh hoa tươi trên cành, từ chiếc lá vàng dưới đất. Long yêu từ những đôi môi son mới nở của những thiếu nữ đến những đường nhăn nheo tăm tối trên trán những lão già. Long yêu từ chiếc nôi con ấm áp của những đứa trẻ mới lọt lòng đến những chiếc mồ hoang lạnh vắng của những bộ xương gầy trắng nuột.

Một bằng cớ là trong bấy lâu nay, Long đã chịu khổ sở ê chề về vật chất, để tìm cái vui buồn sướng khổ của người để vui buồn mừng giận với người. Long đã ở bên cạnh mọi người, nhìn thẳng vào cuộc sống của họ để chia sớt những nỗi lòng họ. Như thế sao người ta có thể cho chàng là một kẻ mẫn thế ưu thời, hành động không ý thức, suy nghĩ như người điên.

Tại sao gia đình Long không muốn cho Long sống tự do theo tiếng gọi của linh hồn? Lại buộc Long phải sống một cuộc đời tầm thường, có ngăn nấp, có lề lối, mà ngoài cái khuôn khổ chật hẹp ấy, Long chỉ là một kẻ không ra gì, rẻ hơn loài trùng dế.

Long nằm trên giường chỉ còn trách mình vô phước có những người chị thiển cận, có những người anh lý tài và một người cha quá nô lệ cho nho phong đạo cốt.

Chàng không tìm hiểu cũng thừa biết cha chàng đang lo chạy chọt cho chàng để chàng được bổ nhậm đi nơi khác với một chủ nghĩa duy nhứt là vinh thân phì da.

Nhưng Long vốn còn trẻ, tuổi còn hăn, lòng đang cuồn cuộn một thứ nhựa sống vô cùng mạnh mẽ. Chàng có xá gì những nỗi thăng trầm.

Những bài học đắt giá bao nhiêu là bổ ích cho chàng bấy nhiêu. Vì không có thứ tài liệu nào dồi dào phong phú hơn thứ tài liệu người ta mua bằng mồ hôi nước mắt, bằng cái khổ tột cùng của linh hồn. Nước mắt ấy, mồ hôi ấy, cái khổ tột cùng ấy, người ta phải chịu đựng mà không than van, chống chọi mà không hỗn loạn.

Sống, lòng Long đầy thử thách. Thắng, chàng không làm chi đắc chí. Bại, chàng không lấy làm sờn lòng. Vì chàng không quan tâm đến cái thành bại tự nó không có nghĩa gì cả. Cho nên động đến vấn đề “xin thôi, xin đổi, bị đuổi việc hay đi làm nữa” là Long không buồn bàn cãi gì, trong lúc cha chàng không ngớt phiền trách: “Mầy là đồ ngu, chờ có ở tù rồi cứ ngồi lì ra mà khóc”.

Chao ôi! Nếu đã đến nước đó và, nếu rủi trong lúc bị cảm xúc mạnh mẽ Long có khóc, thì chính ra Long khóc không phải vì cảnh tù đày, mà khóc vì công lý, nhân đạo của loại người chỉ có giá trị của một danh từ suông sẻ.

Cha Long cứ lo hết “bu rô” nọ, đến “bu rô” kia, xin đổi Long đi làm ở một tỉnh khác. Và cứ mỗi lần ông đi về mệt, ngồi bên tách nước trà, là ông không quên hỏi Long:

Bây giờ, mầy tính sao?

Tính sao? Có bao giờ Long nghĩ tới đâu!

Tính gì nữa! Khi người ta tan nát một tình yêu, nhứt là tình yêu của một tâm hồn nghệ sĩ.

Long biết tính gì nữa ngoài khúc ca trường hận. Long biết tính gì nữa ngoài sự an ủi của cán bút một nhà văn.

Tính gì nữa! Khi danh dự làm người bắt người ta phải lùi lại một tình yêu êm đềm thuần túy mà người ta có quyền nắm lấy.

Tính gì nữa! Khi người ta bị giam cầm cẩn thận trong một nền giáo huấn gia đình nghiêm khắc lúc nào cũng nhắc đi nhắc lại cái câu:

“Đừng viết báo, đừng làm văn, cửa ngục bao giờ cũng đợi chờ, vì ánh sáng mặt trời rất ghét những dòng tư tưởng. Đừng làm những gì thuộc về chữ “Sĩ”, như thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ, v.v......vì đó là một bạn không tương lai, suốt đời nghèo khổ vì thường vay khóc mướn, quá mê mẩn những cái đẹp viễn vong, để giải buồn giúp vui cho thiên hạ”.

Ừ! Thì cửa ngục cũng được!

Gông cùm cũng được!

Hãy đem lại đây cho Long một be rượu đã! Một mảnh hoa tiêu, một chiếc nghiên, một ngọn bút và gì nữa? Một cây đàn.

Ôi! Long van Ngọc Hoàng, Long cầu Thượng Đế!

Long đừng bị đổi đi làm việc một nơi khác nữa. Ở đâu cũng chừng ấy mặt người.

Có khác nhau chăng họa là màu xanh biếc của vòm trời với màu xanh mởn của đôi chiếc lá non, hay màu đỏ tươi đáng mến của cành hoa phượng phất phơ theo chiều gió với màu đỏ thẫm đáng phục của người chiến sĩ ngã gục trên bãi sa trường.

Cái màu xanh đáng yêu. Cái màu đỏ đáng quí.

Chớ chừng ấy mặt người hiền lành hay hung dữ, rộng lượng hay hiểm sâu, chẳng qua tuy tâm địa có đôi chút khác nhau, nhưng ai lại khỏi phải ăn, khỏi phải mặc, khỏi phải sống qua giới hạn của đồng tiền.

Lạy trời hãy cho Long một chút nhớ thương của một chiều tiễn biệt, một chút băn khoăn của người chinh phụ bên hiên trông một cánh nhạn chân trời, một chút khói xám của con tàu lênh đênh trên mặt biển với người du khách không nhà, hay một chút lửa hồng của một lò sưởi ấm trong gia đình đoàn tụ. Chớ đừng bắt Long phải suốt ngày thay đi đổi lại những con số, những công văn, những tập hồ sơ một cách đần độn vụng về.

Lạy trời cho Long sớm dứt nợ với cuộc đời “sáng xách mủ tối xách về”, để phải chịu đựng một cách gượng gạo khổ sở những bộ mặt no tròn hóng hách, những cái bụng béo tốt thị đời của mấy lão phán, quan tham.







XII

Long đến tỉnh T..... đã hai hôm, lòng nhẹ nhõm như người vừa thoát nợ.

Chàng vui vẻ như một con chim non vừa thấy ánh sáng mặt trời sau một đêm giông tố. Lẽ cố nhiên, chàng hy vọng một cuộc đời tươi đẹp hơn những ngày giam thân trong dinh quận tỉnh X.....mà lúc nào nhớ đến là lòng chàng vẫn còn thấy lâng lâng buồn.

Sau một cơn hoạn nạn, người ta thấy đời tươi đẹp hơn.

Long thấy tỉnh T.....đẹp vui đến đỗi chàng quên cả cái bực mình mà các chú chệt đánh bài chim ầm ĩ đến hơn hai giờ khuya ở phòng bên cạnh làm cho chàng không ngủ được. Chàng quên cả cái mùi hôi tanh thường lệ của mùng, của nệm, của những thùng tiểu dơ dáy, của những thau nước vàng ẻo khả nghi của mấy khách sạn Tàu mà lữ điếm Thanh Đảo nầy là một.

Chỉ có mỗi nỗi bận rộn trong đầu óc Long hiện thời là chỗ trọ vì không lẽ ở khách sạn mãi thì tiền đâu mà trả cho người ta.

Tuy cậu chàng cũng ở cùng tỉnh T....., nhưng Long nhứt định là không ở chung được rồi. Vì cậu chàng là một đốc phủ nghĩ hưu, quen những lẽ tục dạ thưa luồn cúi của những quan quyền chức sắc mà chàng không thể chịu đựng được. Ăn phải giữ lễ, nói phải lựa lời, đi phải coi chừng, ngồi phải coi hướng, những cái bó buộc trong gia đình quyền tước ấy làm mất cả sự tự do và làm cho Long ghê sợ hơn phải ở một túp lều hiu quạnh trong một chốn núi rừng hoang vu nguy hiểm.

Chỉ những sự chầu chực hầu hạ của những người tôi tớ từ miếng nước tắm cho đến ly rượu chén trà cũng đủ làm khổ chàng không ít.

Long cố moi đầu óc xem những bạn học trước kia cùng trường có ai ở châu thành tỉnh T.....mà chàng có thể đến trọ nhờ được chăng. Nhưng phải cái tội, ai cũng cùng cha mẹ ở vườn ruộng cả. Và cả những bạn đã đi làm việc, chàng cũng không biết có ai cũng ở tỉnh thành nầy.

Chàng tưởng tượng đến một gia đình ân nhân gặp chàng trong một sự tình cờ ngoài phố. Một gia đình thường thường, không quyền tước cao, không nhà cửa rộng, một gia đình không đông con, sống một cách êm đềm thanh bạch, cảm cái cảnh lênh đênh nơi xứ lạ của Long mà cho ăn đậu ở nhờ. Và biết đâu trong gia đình ấy sẽ có một người con gái thông minh dịu dàng yêu văn chương, thích nghệ thuật, có thể thành một người bạn tinh thần của chàng.

Nghĩ quanh quẩn rồi Long tự giựt mình. Cái kinh nghiệm chua cay vừa rồi không đủ làm chàng mở mắt sao?

Không dám mơ đến chuyện êm đềm của xã hội thượng từng, Long lại nghĩ giá có một gia đình nghèo khổ nào, một gia đình chài lưới, hoặc đan thúng vót tre trong một xóm bùn lầy ngoại ô nào vui vẻ cho chàng ở trọ. Chàng sẽ đi làm lấy tiền về phụ giúp họ trong những ngày họ túng thiếu.

Chàng sẽ nhịn một ít tiền ăn mặc để mua thuốc tây phân phát cho chòm xóm khi họ ốm đau, dạy dỗ con cháu họ trong những đêm hay những ngày lễ chàng được nghỉ để cho chúng biết đọc, biết viết, vì sự cần sống hàng ngày bắt buộc chúng nó không được mang sách đến trường. Thỉnh thoáng có dịp, chàng sẽ gieo vào đầu họ một ít ánh sáng của sự học để họ bớt mê tín dị đoan và ăn ở có vệ sinh để bớt ngu đần và biết thận trong sức khỏe.

Long tưởng những sự nhỏ nhặt ấy áp dụng vào sự sống hàng ngày của đám dân nghèo cũng có thể mở mang họ theo chiều tiến hóa không ít. Nhưng Long lại ngậm ngùi vì đâu là người tâm chí, dắt dẫn người đời không vì một chút tư lợi xấu xa. Giàu khinh nghèo, mạnh đè yếu, cao chê thấp, làm cho kẻ không hóa ra tự kiêu mà sanh tàn bạo, mà kẻ ngu thì mỗi ngày thêm đần và bị kềm thúc trong vòng cầm thú.

Ôi! Có bao việc không phải to mà hữu dụng, kẻ muốn làm mà không được vì bao nhiêu sự phỉ báng của kẻ đồng hành. Và biết đâu lại thêm bao nhiêu cặp mắt nhìn vào một cách tò mò đầy ác ý. Biết bao nhiêu người, hơn một lần, đã thở dài như Long rồi!

Mãi vẩn vơ nghĩ đến những việc không đâu, Long quên cả giờ khắc, chàng mệt mỏi ngủ quên lúc nào không hay.

Bừng mắt ra, Long thấy mình bực nhọc vì đã trằn trọc suốt đêm. Nhưng chàng cũng cố ngồi dậy, với tay lấy chai nước trên bàn rót vào tách súc miệng và thấm một ít nước vào tóc để chải đầu. Chàng không dám dùng đến cái thau vì chàng hiểu thế nào là công dụng của món đồ nầy trong những khách sạn Hoa Việt.

Long đành rửa mặt, chải đầu sơ sài, rồi thay quần áo đi kiếm chỗ ăn lót lòng vì thấy đói. Ăn xong, chàng đi ngay lên tòa bố định vào trình giấy cho quan chủ tỉnh để sắp đặt chỗ làm.

Vừa bước đến Tòa Bố may mắn lại gặp được Tám, trước kia cùng học một trường. Tám vui vẻ hỏi chàng và có ý trông chàng đến, vì ở đây đã nhận được giấy tờ của Long trước nửa tháng rồi. Tám hỏi thăm về chỗ ở của chàng. Gải đúng chỗ ngứa, Long hết lo xa xôi vì biết thế nào Tám cũng dò hỏi cho chàng trước phòng khi cần. Tám dẫn chàng qua trường học giới thiệu với Ba, giáo học, trước cùng học một trường nhưng ở lớp trên.

Ba vui vẻ đón tiếp chàng và chịu cho chàng ở trọ.

Ba ở một gian nhà rộng, lót gạch bông, lợp ngói, có đèn điện nước máy, cất theo kiểu kim thời ở xóm Thanh Lệ. Nhà nầy của một viên chức cao cấp bà con với Ba, đã bị bổ nhậm đi tỉnh khác, nên Ba ở đây để trông coi dùm sau trước, và trả cho chủ một giá rất nhẹ.

Long bằng lòng với cái biệt thự con con nầy lắm, nhứt là chàng biết Ba hiện đang với Hai là một người bạn thích văn chương.

Hai làm thông ngôn Tòa Án. Ngoài giờ phận sự của chàng ở sở thường là những giờ Hai đọc sách ngâm thơ vang nhà. Không gì vui thích gì khi Long thấy trong phòng Hai có một rương sách to phần nhiều là Việt văn, mà hầu hết là những bản đặc biệt giấy tốt và có chữ ký của tác giả.

Trong rương sách khổng lồ ấy, một phần lớn là những rương sách chưa rọc ra. Long có lần ngạc nhiên hỏi Hai mua sách để làm gì mà vẫn để nguyên như thế.

Hai mỉm cười sung sướng đáp:

“Anh tính tôi còn rọc những quyển sách ấy ra làm gì nữa? Tôi đã đọc những cuốn ấy nhiều lần quá, có khi còn đến rách cả bìa, nhàu cả giấy. Những quyển còn nguyên vẹn nầy là hầu hết là những cuốn tôi mua lần thứ nhì, và nhứt định để thỉnh đem ra ngắm rồi lại cất như một kho tàng quí báu”.

Ba thì trái lại, không thích gì hơn cờ bạc.

Bao nhiêu tiền lương mỗi tháng, chàng đều đưa cả vào sòng bài. Ai có phiền hà gì anh, anh chỉ dứt ngang qua một tiếng:

“Ở cái tỉnh cóc nầy, có gì mà chơi ngoài ra cờ bạc cho hết thì giờ”.

Không một thứ bài nào mà Ba không đánh. Từ cái thứ chậm ăn, chậm thua nhứt như “cát-tê”, “tứ-sắc”, cho đến cái thứ trút túi đi một lần như “Xì Lát”, “Ích- Xì”. Hễ ai chơi là Ba chơi. Ai nghỉ là chàng khẩn khoản.

Ai thua hết túi mà chàng ăn là chàng cho mượn để không phải nghỉ sớm hơn hai giờ khuya mỗi đêm.

Ai ăn Ba hết tiền, chàng cũng cố nài nỉ cho bằng được hai đồng để uống cà phê buổi sáng.

Những lúc thắng liên tiếp thì chàng lập công ty Tài Xỉu cho các bạn cùng sở đánh.

Những khi thua liên miên thì chàng kêu các bạn chơi “Hụi” để chàng góp tiền trả nợ.

Nợ nầy chưa hết nợ khác và vân vân.....

Đến khi tiền không còn lấy một xu, Ba chỉ đánh bài biên sổ để cuối cùng lãnh lương trả lại. Mà lương tháng lãnh về lại có thấm vào đâu.

Lắm lúc quần áo rủ nhau rách mà Ba không có tiền may, giày mòn mất để mà Ba không mua nổi một đôi giày mới. Thua quá, Ba chỉ còn có nước chưởi thề: “Cha đời! Đôi giày mấy mươi bạc, đi lại trước cửa hàng luôn mấy hôm muốn vào mua thì cứ chê mắc, mà tiền lương cầm về cả trăm bạc chỉ “nướng” vài “tụ” là tiêu ra tro.

Cùng quá, có khi Ba nghĩ đến cách xuống kho bạc năn nỉ anh Cống đưa cho vài chục tấm giấy số Đông Dương bán lấy tiền mà gỡ nợ ngặt. Nhưng nợ cứ gỡ thêm lại có, gỡ bớt thì không.

Thành thử, đời chàng chỉ quanh quẩn trong mấy chữ “Bài xấu – Thiếu nợ - Trả nợ”. Rồi có lúc quẩn quá, Ba lại lên tòa bố van xin ông ký lục cho mượn tiền lương trước, cứ theo luật nhứt định của công chức là “Xe xít đít đui”[6]. Đó là những dịp tên Ba được vào sổ riêng của quan ký lục già để cuối tháng bị ông trừ lại tiền mượn trước. Và có khi, sau bài toán trừ ấy, Ba xuất mồ hôi, phủi tay xách đít ra về.

Ai có hỏi đến tiền, Ba chỉ trả lời vắn tắt: “Dậu phí mậu tắc binh”[7], rồi cười ra nước mắt.

Ở trong bầu không khí như vậy lâu ngày, người ta rất dễ bị ảnh hưởng.

Hai ban đầu mỗi đêm mỗi đêm còn đọc sách ngâm thơ. Nhưng rồi cũng đến như Ba, ở sở thì thôi, mà về đến nhà thì phải ném bộ bài ra thử sức trước khi ăn cơm. Có khi họ lại mang cả chén cơm đến sòng bài, vừa ăn, vừa đánh như lời họ bảo: “Thì giờ là tiền bạc”.

Thua quá, Hai có một cách gỡ nợ dễ chịu hơn Ba vì Hai coi về sao lục tòa án. Ai ở xa gửi ngân phiếu hoặc gởi cò lại, chàng nhận lại xài trước đã. Rồi Hai cứ lấy tiền của kẻ sau làm cho kẻ trước. Còn cò và con niêm thì cứ mang cả lại nhà Bưu Điện cho anh Phong bán lấy tiền dùm.

Đến phiên Long cách gỡ nợ duy nhứt là biên thơ thúc đại lý các tỉnh thống kê tiền sách mà chàng gởi bán độ trước.

Muốn tránh những điều phiền lụy của những lối giải trí nguy hại đến tinh thần và sức khỏe ấy, Long chỉ còn có một nước là tìm chỗ trọ khác.

Nhưng khổ nỗi, bao nhiêu chàng thanh niên của tỉnh ấy đã chịu ảnh hướng nhau rất nhiều. Họ sống rất cẩu thả từ tinh thần đến vật chất và thường chỉ gặp nhau trong sòng bạc để sát phạt lẫn nhau.

Như vậy, Long làm gì để tìm một chỗ đổi gió dễ dàng.

Hay là Long cứ mặc kệ cho đời lôi cuốn và tự an ủi như bọn họ với câu: “Trời sanh voi sanh cỏ. Xưa nay, ở cái xứ Nam Kỳ phì nhiêu nầy, có mấy ai chết đói đâu mà lo”.







XIII

Ai đó?

- Tôi

- Tôi là ai?

- Tôi là tôi. Còn phải hỏi.

- À! Chị thợ Đông ấy hả!

- Chớ còn ai nữa. Làm gì chừng nầy trưa rồi mà chưa chịu mở cửa buôn bán gì hết. Dễ thường cứ trăm ngày như một nầy thì có hàng vạn cửa hàng đi nữa cũng đến đóng cửa mất.

- Ủa! Chị nầy mới là lạ. Ai đời mới tản sáng nhà người ta chưa mở cửa mà đến làm thầy đời rồi.

- Thầy đời đó! Rồi có làm sao không? À mà nầy dì con Huệ à! Cái gì mà bữa nay tôi đi chợ về rồi, dì con Huệ cũng chưa chung ra khỏi mùng.

- Thì chị tính coi còn cái gì nữa! Gánh Thẩm Mỹ lại đây hát một tuần nay rồi. Đêm nào hai vợ chồng tôi lại không tốn tiền mua hai cái giấy hạng nhứt. Gánh Thẩm Mỹ hát hay quá chị à! Nầy nhé, quần áo mới, tranh cảnh đẹp, lại hát toàn tuồng Tàu và kiếm hiệp, có hề Xạt-Lô Mèo, có kép Bảy Cán Gáo ca Vọng cổ không được, có đào Ma Ri Phước ca Quảng, có đánh “Ba Nha”[8] cụp lạc, có mọi nhảy múa trong động, có đèn màu mỹ thuật, có nghèo cũng ráng đi coi để chết thành ma nhà quê.

Hai vợ chồng tôi coi luôn năm đêm mà chưa chán. Nhứt là hề Bảy Cán Gáo ca Vọng cổ thì dẫu tiền vay bạc hỏi cũng cam lòng.

- Dì nói quá lố. Tôi cũng có đi coi gánh Thẩm Mỹ cũng thường vậy thôi. Nhưng dầu có hay quá như dì con Huệ nói mà vay tiền đi coi hát để không có gạo nấu phải quơ quào hàng xóm thì nhứt định tôi không làm được dì con Huệ à!

- Lại thầy đời nữa. Vậy mà trời không cho chị giàu thì thật không hiểu sao. Nhưng có phải chị muốn rào trước tôi, không muốn cho tôi mượn gạo bữa nay thì chị nói.

- Nói ra thì dì con Huệ nó giận chứ tôi cũng làm ăn, tuy không giàu có, nhưng có thiếu hụt như dì con Huệ đâu. Dì con Huệ thiếu tôi bao nhiêu rồi biết không?

- Mới thiếu chỉ gần ba chục lít mà chưa chi sợ tôi giựt. Nè, để tôi nói nhỏ cái nầy cho chị nghe nhé! Chị cứ ráng cho tôi mượn đỡ một trăm nữa may quần áo bận. Rồi tôi sẽ kêu tay tứ sắc đánh trong vài ngày là tôi lấy tiền xâu đủ trả lại cho chị rồi.

- Lại còn mượn tiền nữa! Thiếu hơn hai trăm bạc rồi mà gần hai tháng nay có lo chạy trả tôi chút đỉnh gì đâu. Dì con Huệ đừng nói tiền xâu, tiền xâu làm gì có! Cứ xâu bao nhiêu là dì con Huệ thua hết bấy nhiêu chớ còn đâu mà xâu với xỉ.

- Chị đừng lo. Không cách nầy tôi cũng có cách khác.

- Cách gì?

- Nói cho chị nghe rồi bỏ qua, đừng nói đi nói lại, chồng tôi nó nghe được thì rối to.

Dì con Huệ làm ra vẻ bí mật kề tai chị Thợ Đông nói nhỏ:

- Chị có biết thầy ký Long không?

- Phải cái thầy nho nhỏ mới lại ở đậu nhà dì con Huệ hơn tuần nay phải không?

- Phải. Chính là thầy ký Long đó.

- Rồi sao?

- Bộ chị tưởng tôi điên gì nuôi cơm tháng cho mệt xác sao?

Chẳng qua tôi thấy còn nhỏ chưa vợ chưa con gì hết nên....

- Nên dì con Huệ tính câu cậu ấy cho con Huệ.

- Bậy nà! Tôi tính dụ thầy Long cho được, chừng ấy tôi thôi ba con Huệ.

- Chết! Đừng nói bậy.

- Bậy đâu. Bộ chị tưởng tôi già rồi sao. Tôi chỉ hơn thầy Long có 4 tuổi thôi. Phải, tôi thôi ba con Huệ cho rồi.

Làm thợ, nay đồ nhiều, mai đồ ít, khó lòng quá. Chẳng thà lấy thông ngôn thơ ký có lương hàng tháng khỏi lo đói. Mà có khi nhằm chỗ kiếm ăn được thì vàng vòng đeo phủ tay.

- Mới nói nghe cũng được. Con Huệ đã lớn mà hiền hậu dễ thương. Còn thầy Long tôi coi cũng nhu mì tử tế. Cặp đó còn có thể, chớ không dè dì nó tính dụ cậu trai kia vô tròng cho dì nó thì thiệt là hết chuyện chơi.

Vừa lúc ấy Huệ đi chợ cũng về đến cửa sau.

Trông thấy Huệ, mấy đứa em nhỏ nàng đang ngồi tiu ngỉu trên chõng tre, nhảy chồm dậy và reo lên:

- Chị Huệ đi chợ về rồi tụi bay ơi!

- Chị Tư có mua gì cho tui em không chị Tư?

Giữa sự reo mừng của mấy đứa em, Huệ chán nản đặt gió đồ ăn xuống chõng, ôm mấy đứa em vào lòng ứa nước mắt.

Huệ buồn rầu vuốt tóc mấy đứa nhỏ an ủi:

- Chị muốn mua bánh về cho ba em mà coi lại thì tiền hết nên chị không mua. Thôi mấy em chịu khó nhịn đói lát trưa ăn cơm nhiều mau mập.

Huệ vừa nói vừa lấy đồ trong giỏ mây ra:

- Nè, chị có mua cho mấy em con cá lóc nè! Một trái bầu nè! Ba trái cà nè! Một....

Huệ còn muốn kiếm kể thêm nữa, nhưng thấy trong giỏ chỉ còn miếng thịt mỏng như lá lúa, không đáng gọi là miếng thịt nữa nên lòng Huệ nghẹn ngào.

Huệ cố giấu một giọt nước mắt trước sự nghèo nàn của gia đình mình. Nàng thấy mấy đứa em nàng thất vọng vì đã chờ đợi nàng đi chợ về một cách vô ích. Huệ rất tủi thân nhưng làm ra vui vẻ trước mặt mấy em nàng. Nàng an ủi chúng nó:

- Để mai, chị thêu xong cái áo cho bà Phó, chị sẽ có tiền nhiều. Chị sẽ mua cho ba em rất nhiều bánh để bù lại ngày nay chị đã cất buổi ăn sáng của mấy em.

Mấy đứa nhỏ biết có nói nữa cũng không ích gì vì chúng nó thường bị nhịn ăn buổi sáng như thế. Vả chúng nó cũng biết chị Huệ của chúng nó rất thương chúng nó. Nếu chị Huệ có tiền thì chị chẳng tiếc gì với chúng nó đâu. Chúng nó chỉ đành lảng xa ra chơi.

Trong lúc ấy, nghe tiếng trẻ reo, dì ghẻ Huệ biết là Huệ đi chợ về nên đưa ra một giọng gay gắt thường lệ:

- Con Huệ đi chợ về có gì ăn không hả?

Huệ cố dằn sự bực tức thong thả trả lời:

- Dạ thưa dì có.

- Có khô lân chả phụng gì nói sơ coi?

- Dạ có con cá lóc.

- Gì nữa?

- Một trái bầu.

- Gì nữa?

- Ba trái cà.

- Gì nữa? Sao mà đợi hỏi từ tiếng như con nít tập nói!

- Một lát thịt.

Không nghe con Huệ nói thêm, dì Huệ gắt:

- Còn gì nữa? Hay đợi mời mới nói?

- Thưa hết rồi.

Dì Huệ vẫn nằm yên trong mùng trên giường nhà trên:

- Có bao nhiêu đó mà cũng kêu đi chợ. Vậy chớ ba mày không đưa tiền cho sao?

- Thưa không.

- Sao mày không hỏi để mua, có bấy nhiêu đó không đủ nhét kẽ răng. Nhà cả chục miệng ăn, thêm có thầy ký Long nữa. Bấy nhiêu đó không đủ mèo hưởi. Sao không hỏi ba mầy lấy tiền.

- Dạ con có hỏi ba. Nhưng ba nói hồi hôm còn được mười đồng ba mua hai cái giấy hạng nhứt cho dì với ba đi coi hát hết rồi.

- Vậy chớ tiền đâu mà đi chợ? Bộ hồi hôm tao đi coi hát, mày ở nhà ngủ với thằng nào nó cho tiền đi chợ đó phải không?

Một lần nữa Huệ cố nén cơn giận tức:

- Dì nói chơi vậy không sợ xóm giềng nghe được họ cười.

- Dì quên tôi đã đan được hai cái áo len giao cho tiệm lấy công được 25$00 đi chợ hai hôm nay, còn được 5$00 sáng nay đi chợ đây mới không đủ tiền mua đồ ăn.

- Mầy nói vậy, tao nghe vậy. Chớ nói cùng mà nghe mầy có ngủ với ai mầy ngủ, tao cũng có làm được gì mầy.

Huệ nghĩ thầm: “Giá Huệ có nghèo quá lẽ phải bán trôn nuôi miệng, và hơn nữa nuôi được gia đình, cũng có gì đáng lấy làm nhục nhã đâu. Huống hồ Huệ đã thêu may vá mướn cực khổ mới có tiền phụ vào chỗ túng thiếu của gia đình. Sao dì ghẻ Huệ lại có thể ăn ngược nói ngạo, không kể trời đất gì cả”.

Nàng toan phản kháng. Nhưng nàng nhớ lại mỗi lần có cuộc đấu khẩu là một dịp may cho dì nàng tru tréo lên như ai cắt cổ để xúi giục cha nàng đuổi xô nàng. Cùng một lúc với bao nhiêu tiếng tục tằn, bao nhiêu lời nguyền rủa, dì nàng không từ một tiếng nào để chửi bới nàng.

Trong lúc ấy, cha Huệ chỉ biết kêu trời: “Con Huệ nó giết tôi! Không biết nó trả lời một tiếng có mập béo gì mà nó nhịn dì nó một chút không được”. Và khi cuộc cãi vã ấy biến thành một cuộc xô xát thì chừng ấy cái gì cũng thể rơi vào đầu vào mặt Huệ được, từ một cây chổi cùn đến một cái nồi đất, từ một cái kéo sắt cho đến một cán thước cây.

Biết mình luôn luôn thất thế trong sự đụng chạm với dì nàng. Huệ chỉ còn có nước bỏ qua nhà hàng xóm cho nguôi việc ấy đi.

Cũng may, trong lúc Huệ vừa bước ra khỏi cửa thì chị thợ Đông, vợ người thợ mộc hàng xóm, đang ngồi nói chuyện với dì Huệ, bước xuống can:

- Thôi! Dì con Huệ đừng làm om sòm. Con Huệ nó cũng lớn rồi. Có gì thì nói chớ chửi bới làm gì người ngoài nghe kỳ cục lắm. Tốt hơn là lấy lời ngon lẽ ngọt dạy dỗ nó có ích hơn.

- Ma mà dạy cái thứ thần đánh thánh đâm ấy. Nói một tiếng, nó nói lại mười. Để nữa rồi chồng nó chửi cha mắng mẹ rồi ôm đầu mà khóc.

Chị thợ Đông tuy bực mình về sự gay gắt vô lý của dì ghẻ Huệ nhưng cũng nói cho xuôi:

- Ừ! Thì nữa rồi nó có chồng con nó sẽ biết thân, chớ hơi sức đâu mà dì lo trước.

Lo trước vậy mà còn không lại với nó chớ. Đây! Chị xuống chái nhà sau chị coi, tôi có nói thêm cho nó chút nào đâu!

Dì ghẻ Huệ vừa phân bưa vừa kéo chị thợ Đông ra phía chái nhà sau, chỗ để cho Long ở.

Đây chị coi! Chưa gì mà nó ngựa lần rồi. Mấy hôm nay nhà không có tiền nó cũng biết chớ. Vậy mà bữa nào nó cũng mua hoa huệ cho thầy ký Long. Tiền không có mà ăn, mà nó có tiền mua hoa cho trai. Không khéo rồi nó chửa hoang đẻ lạnh rồi ba nó lôi tôi ra mà mắng chớ ai.

Biết có phải không mà dì có nói oan cho con Huệ tội nghiệp.

Huệ đỏ bừng mặt, xấu hổ vì có người nom chừng nàng từng củ chỉ nhỏ nhặt, nhứt là người ấy lại là dì ghẻ nàng. Nàng nghĩ có lẽ dì ghẻ nàng đã ghen bóng ghen gió với nàng. Như thế lại càng nguy hiểm cho nàng trong gia đình nầy nữa. Nếu cha Huệ hay được, thì thân nàng sẽ còn gì.

Trong cái phút nguy cơ ấy, bỗng nhiên nàng nghĩ ra được một câu trả lời:

- Thưa dì. Cám ơn dì đã lo cho con từng cử chỉ không đáng kể. Nhưng những hoa huệ trong phòng thầy Long, chánh là thầy đưa tiền nhờ con mua dùm thôi.

Dì Huệ nghe câu nói ấy như nhát búa vào đầu. Dì Huệ không tưởng tượng được Long đã bỏ rơi mình để làm những việc ngấm ngầm ấy với Huệ. Dì Huệ ong óng lên, gầm hét như con mãnh thú đang vồ lấy mồi:

-Thiệt vậy hả? Thiệt vậy để thầy Long về tao hỏi. Hễ thầy Long nói không có thì mầy sẽ biết tay tao. Con gái lớn lên thì cũng phải đợi lịnh mẹ cha, chớ có phải giống đầu đường xó chợ đâu mà đụng ai năm ba xu một cắc cũng lấy.

Đang thẹn đỏ mặt, câu hăm he long trời lở đất của dì Huệ ấy đã làm cho Huệ tái hẳn người đi. Vì thật ra có bao giờ Long gởi tiền cho Huệ mua hoa đâu.

Trái lại, lúc nào Long cũng giữ một thái độ đứng đắn trước mặt Huệ. Nếu dì Huệ hỏi ra thì còn gì là Huệ nữa. Huệ đã lỡ bào chữa mình cách ấy rồi. Nàng toát cả mồ hôi.

Huệ nghĩ thầm: “Hay ta đi lên Tòa Bố kiếm thầy Long nói cho thầy hay trước để dì mình có hỏi thì thầy nói là của thầy mượn mua dùm. Mà thầy Long nghiêm nghị quá, biết thầy có chịu nhận như thế không?

À! Thôi, được rồi, ta sẽ viết thơ.....”

Tức khắc, Huệ đi qua nhà chị Quế mượn viết mực viết mấy hàng nầy để mãn giờ Long đi làm về, Huệ sẽ trực hờ trước cửa trao thơ bảo là của người ta gởi. Nàng cặm cụi viết:

Thầy Long,

Xin thầy cảm phiền về sự vô lễ của em vì em đã làm phiền thầy một cách vô lý. Nhưng dầu sao, chuyện cũng đã lỡ ra rồi. Em chỉ cầu xin thầy cứu em bằng một lời nói nó không thiệt hại gì cho thầy bao nhiêu.

Có lẽ từ hôm mấy hôm nay, thầy cũng để ý trong phòng thầy luôn luôn có một bó huệ. Huệ đó, chính tay em mua mỗi sáng và tự em cắm vào lọ phòng thầy.

Em nghĩ tuổi thanh niên cần phải có gì trẻ và đẹp mà nhà em thì đồ đạc sơ sài không có gì quý giá cả. Em mua huệ cốt để làm cho gian phòng tiều tụy của thầy bớt cái vẻ khô khan buồn tẻ ấy đi. Ngoài ra, em không dám có ý gì khác với thầy vì em cũng hiểu mình, hiểu người.

Địa vị không cho phép em nghĩ đến những chuyện cao hơn mình. Vì những chuyện quá sức mình thường chỉ làm khổ mình thôi.

Thầy cũng thừa rõ nhà em nghèo, tiền còn không có đủ ăn có đâu dư dả để mua hoa mua trái. Em đã làm một việc dại dột mà em không kịp nghĩ để lọt vào mắt kẻ khác. Cho nên sáng nầy dì em hỏi tại sao em mua hoa huệ cho thầy thì em nghẹn không biết nói sao.

Cùng quá, em phải bảo là của thầy gởi tiền nhờ em mua dùm. Vậy dì em có hỏi gì, thầy cũng nhận cho như thế. Đã không thiệt hại gì cho thầy mà cứu được thân em.

Em xin quả quyết với thầy em sẽ không làm những chuyện vô lý như thế để làm phiền đến thầy nữa.

Xin thầy vui lòng cho.

Huệ







XIV

Long cầm chiếc thơ mân mê cả giờ đồng hồ.

Tại sao có thể như thế này được chớ?

Khi không người ta mua hoa cắm vào lọ ở phòng mình. Rồi người ta bắt mình phải nhận là của mình mua. Mà mình không nhận như thế thì tội nghiệp cho một người con gái trước sự độc ác của mẹ ghẻ.

Thật ra, tuy mới lại ở hơn mười ngày, Long cũng đã từng chứng kiến những cuộc hành hung của người mẹ ghẻ đối với con chồng ấy rồi.

Chàng thấy tội nghiệp Huệ, tội nghiệp một người con gái đến cái tuổi để thấy đời xán lạn nhứt, huy hoàng nhứt thì Huệ sáng phải đi chợ, xong lại quét nhà lau bàn ghế, rồi đi may thêu mướn cho những công chức Pháp trong tỉnh. Trưa về lại nấu cơm, rửa chén, gánh nước, giặt quần áo cho nội nhà. Chiều đi làm về lại cũng phải nấu cơm rửa chén, tắm rửa cho mấy em nhỏ nàng. Ngần ấy việc nặng nhẹ, đều một tay Huệ xốc vác cả. Nhưng những lời chửi mắng tàn tệ vẫn luôn luôn ở đầu môi chót lưỡi của người dì ghẻ nàng, một người đàn bà mà cha nàng đã nhặt được ở bên lề xã hội sau một đêm truy hoan ở xóm Sáu Già.

Người đàn bà ấy xuất thân ở chỗ cặn bã xã hội đã bị nghề nghiệp làm hư quá nhiều. Người tưởng chừng như người chỉ có một phận sự duy nhứt trong gia đình là làm một cái gối ôm cho cha Huệ. Người không bao giờ đụng đến móng tay một việc gì trong nhà cả.

Trong khi cha Huệ cặm cụi may suốt ngày để có tiền nuôi lấy gia đình thì dì ghẻ nàng có việc là cờ bạc cho tiêu mất số tiền ấy. Và nếu có thừa thì chỉ đủ lấy vé đi xem hát cải lương.

Còn quần áo của Huệ và mấy em, Huệ phải làm lụng thêu thùa để có tiền tự túc lấy.

Đến cả tiền chợ trong nhà, có khi cũng chính Huệ phải lo. Nhưng có điều Long ngạc nhiên nhứt là Huệ luôn luôn có một nụ cười trên đôi môi thắm.

Hình như nàng phải là một kẻ giàu lòng tha thứ và nhẫn nại lắm mới được.

Chính những sự bất công ấy thường nhan nhản trước mắt Long. Thành thử tuy nó không ăn thua gì đến Long, nhưng Long cũng đến bực mình lắm.

Long thấy ghét cay ghét đắng cái người dì ghẻ ác độc ấy. Và càng ghét lại thấy Huệ càng đáng thương hại hơn.

Đã khổ sở thế, Huệ lại không thù oán gia đình. Thỉnh thoảng làm có tiền, Huệ lại may choc ha một chiếc quần hay một chiếc áo. Nàng lo ngược lại cho gia đình rất nhiều để chỉ được một chút lòng ghẻ lạnh của cha nàng và những tiếng chửi tục tằng của người dì ghẻ.

Cử chỉ ấy làm cho Long suy nghĩ nhiều. Sao Huệ lại có một lòng yêu người, quên mình quá lẽ như thế.

Long so sánh Huệ với chàng.

Long, trước sự ghẻ lạnh của gia đình, chỉ còn biết lo có mỗi một thân mình. Chàng thoát ly lề lối để làm những chuyện thích hợp với tâm hồn. Cha buồn, chị giận, anh hờn cũng mặc. Chàng chỉ cần được theo lòng mình thôi. Có thể nói chàng sống gần như ích kỷ.

Trái lại, Huệ chịu đựng một cách cứng cỏi và không than van, cái gia đình địa ngục ấy. Nàng cũng có thể thoát ly như Long. Nàng làm riêng, ăn riêng, và tóm lại làm cuộc đời riêng. Nhưng nàng không nỡ, còn đàn em dại khổ sở mới làm sao đây? Nàng sống vì chúng nó, nàng nhận thức rõ rệt nhiệm vụ nàng trong gia đình.

Tại sao một người con gái thiếu giáo dục, thiếu học thức như Huệ lại có thể sống một cách cao cả hơn Long?

Có phải tại sự nghèo khổ đã làm cho tình cảm người ta thêm thâm thúy đậm đà hơn sự giàu có chăng?

Long suy nghĩ mãi, suy nghĩ sự thấp kém mình trước người con gái nghèo nàn ấy.

Bỗng nhiên, Long có ý nghĩ lấy Huệ làm vợ.

Sao lại không được?

Một người con gái rất đáng thương như Huệ rất cần có sự che chở của một người đàn ông đứng đắn. Mà nếu người đàn ông ấy không đến với nàng, biết đâu rồi Huệ sẽ không chịu nổi cái ác độc của dì ghẻ, sẽ bỏ nhà ra đi theo con đường phóng đãng như chị hai nàng.

Chừng ấy, gia đình nàng chẳng những nát tan mà cả cái thân hình nàng, rồi cũng đến tiều tụy với những trận cười thâu đêm suốt sáng.

Lấy Huệ, Long đã làm được một lượt ba việc:

Cứu được đời một người con gái vô tội.

Nâng đỡ được tinh thần và vật chất gia đình Huệ.

Và làm một việc rất nhân đạo đối với lương tâm mình.

Hơn nữa, lấy một người vợ giàu để được gì? Long đã nhiều lần tự hỏi nếu không là sự có thể rước vào mình một ít khinh rẻ của bạc tiền, một ít khó chịu của lề lối trưởng giả, và biết đâu một ít trói buộc của một cuộc đời vật chất hoàn toàn.

Long đã chịu đựng sự bất công của xã hội nhiều rồi. Long đã không lấy được Ngôn vì sự cách xa của địa vị và tiền bạc. Thì có lý đâu địa vị và tiền bạc lại có thể chia cách Huệ và Long.

Không! Người con gái can đảm ấy phải có một phần thưởng tinh thần xứng đáng. Phần thưởng ấy, tình yêu Long.

Nhưng lấy nàng, Long lại làm một điều trái nghịch hẳn với nguyên tắc gia đình mình.

Có phải cái Nam Bộ nầy hết người rồi sao mà Long lại là rể của một gia đình không tên tuổi, không danh giá, không bạc tiền.

Người ta luôn luôn nghĩ đến những người trên địa vị mình, cầu thân với những người trên sự nghiệp mình, còn kẻ dưới mình dầu có tài giỏi hơn, có đức hạnh hơn, cũng không ai buồn nghĩ đến.

Đã chịu đựng và oán ghét sự bất công, người ta thường làm những việc bất công. Hình như người ta cho làm như thế là trả thù. Mà xã hội chỉ toàn những người nghĩ sự trả thù thì biết đâu đời sẽ mỗi ngày tiến lần đến địa ngục.

Trong sự trộn lẫn của bạc tiền địa vị ấy, may ra cũng có một ít người biết chịu thiệt mình để được người.

Sự quên mình ấy, Huệ đã thí nghiệm một cách đắc thắng trước mắt Long.

Tại sao Long không có thể làm một việc rất có ý nghĩa là lấy Huệ làm vợ?

So sánh một người giàu, con một gia đình thế lực, tất nhiên là họ không thiếu một sự gì, với một người con gái nghèo nàn trước sự sụp đổ của một gia đình, thiếu đủ mọi phương diện và cần một sự che chở, Long thấy đòn cân nó ngã về Huệ nhiều quá.

Long cần phải đi ngược dòng.

Khi mà người ta không nghĩ đến sự nhờ của vợ như Long thì cần gì phải lấy con ông nầy bà nọ.

Long quyết sống bằng tự lực. Giàu ăn ở theo giàu, nghèo lên nghèo. Long nhứt định không khòm lưng dưới đống tiền thì ông bố vợ có bằng trời cũng có ích gì cho Long đâu.

Long vừa nghĩ đến đấy, chưa kịp bỏ thơ vào túi thì tiếng dì ghẻ Huệ đã nổi dậy:

- Huệ! Thầy Long về chưa?

Huệ đang cầm đũa trở những khứa cá trong nồi, nghe không rõ dì nàng nói gì nên hỏi lại:

- Thưa dì nói chi?

- Thôi đừng làm bộ điếc. Chuyện mới rành rành đó mà coi bộ mầy đã muốn quên. Tao hỏi mầy thầy Long về chưa?

- Dì nằm đó, thầy ấy về đi ngang đường dì mà dì không hay sao?

- Tại sao mầy bắt tao phải hay? Bộ chồng tao sao?

Long nghe rõ từng tiếng những lời nói mất dạy nầy. Long định bụng lát nữa sẽ nói với cha của Huệ, chớ có nói với hạng người ấy họ cũng không hiểu được gì.

Nhưng dì ghẻ Huệ vừa dứt câu thì Huệ lại phản đối:

- Chớ thầy Long là cái gì của con sao mà dì bảo thầy ấy đi về con phải biết.

- Hay cho con nhỏ nầy! Mầy dám bắt lỗi bắt phải tao. Tao nói cho mà liệu hồn, cái thứ ranh con tập ăn tập nói của mầy tao xé xác ra như xé giấy.

Long tức quá, từ phòng chàng bước ra can thiệp:

- Thiếm chớ nói lôi thôi. Chuyện gì đến tôi mà lại lôi tôi vào?

- Nào tôi có chuyện gì đến thầy đâu. Tôi chỉ rầy con Huệ tôi mà thầy muốn bênh vực nó hả?

- Ăn thua gì thiếm bảo tôi bênh.

Huệ biết để cho dì mình nói bậy bạ thêm nữa sẽ rối thêm chuyện, nên nói được lòng cả hai bên:

- Thì thầy Long thấy mỗi bữa con đi chợ nên mượn con mua giùm, sợ mượn dì những chuyện không đáng chỉ làm rộn dì thôi.

Không ngờ câu nói ấy lại có một ý nghĩa kiêu ngạo ghê gớm với dì ghẻ nàng là người đã bị bỏ rơi. Dì Huệ cáu tiết lên chửi Huệ:

- Đồ khốn nạn! Nuôi mầy ăn hại lại còn làm rối thêm hết chuyện nầy đến chuyện khác.

Cái lối chửi xéo mắng xiên hèn hạ ấy đã làm cho Long mất cả vẻ nhã nhặn:

- Thiếm có định nói tôi thì thiếm cứ nói ngay.

- Ai dám nói thầy. Thầy là người trên trước mà ai dám nói. Nhưng nếu tôi nói, thầy có làm gì tôi không chớ?

- Tôi sẽ cho ngay một bài học.

- Thì thầy cứ tự tiện.

Vừa nói: “Đây”, Long vừa đưa tay ra tát một tác nên thân vào má người đàn bà vô lễ ấy.

Cùng một lúc, những tiếng hét la, những tiếng chửi rủa tục tằn của dì Huệ vang dậy lên. Và dì Huệ đã nhảy vào mình Long cấu xe như con mãnh thú vồ mồi. Huệ và mấy em Huệ khóc ré lên và nhảy vào ôm kéo lại.

Dì Huệ bị nắm giữ lại, cứ ráng chồm tới và chửi mãi:

- Đồ khốn nạn! Bây đi cho khỏi nhà tao! Đi hết con Huệ nầy nữa đi cho rảnh mất. Ở đó có ngày tao đâm bây chết hết.







XV

Những ánh nắng còn sót lại của một buổi chiều ửng đỏ một góc trời. Trên tàn cây, tiếng chim đã hết cái giọng ríu rít vui mừng, và gọi nhau nho nhỏ như sửa soạn chỗ ngủ để chờ đêm xuống.

Những thoi vàng lơ lưng trên mặt ao Bà Om đã lần lần biến sắc và chìm dần dưới đáy nước xanh.

Những cây dầu tàn cao lá rậm chung quang ao đã bắt đầu đưa ra một hơi lạnh của những khu rừng.

Ngoài kia, những thửa ruộng mênh mông với lúa chín vàng thơm ngát còn văng vẳng tiếng hát cuối cùng của những thợ gặt cố làm trễ cho rồi việc.

Đồng lúa đẹp lắm, nhứt là khi sương chiều nhẹ xuống, cái vẻ mơ mờ ấy có một cái huyền bí của mênh mông.

Màu xanh lợt của vòm trời đã đổi ra màu xanh thẩm làm nổi bật lên những trái núi bạc của vầng mây trắng. Và trên vòm trời cao vút, đôi vì sao lờ mờ điểm những chấm trắng đục báo hiệu một đêm lành.

Long thở dài tiếc rẻ:

-Chiều rồi em Huệ à!

-Ồ! Chiều rồi nhỉ mà em không hay.

-Thôi, chúng ta về đi thôi.

-Thì về. Để tối nữa em về ngang xóm sóc Cụt, sóc Thác em sợ Thổ lắm.

-Thì ta lại về đường cái, tội gì lại về đường đồng mà đi ngang mấy xóm ấy. Nhưng kìa em có thấy trời chiều đẹp ghê hồn chăng?

-Đẹp thật. Nhưng em sợ buổi tối lắm anh à?

-Vì sao?

-Vì bóng tối luôn luôn nhắc em những sự hãi hùng sẽ đến cho đời em.

-Sao em Huệ của anh cứ nói lôi thôi mãi. Cứ tận hưởng ngày nay đã. Ngày mai đã có gì đáng lo. Cũng trời ấy, cũng đất ấy, cũng những vòm cây xanh ấy, những thửa ruộng vàng ấy.

-Nhưng ai biết đâu trời lại không thay, đất không đổi, cành cây ấy không một ngày thành đất mục mà cả những cánh ruộng vàng ấy lại chẳng hóa ra những đại hải trường giang. Thật ra ở đời lại không mấy khi thay đổi hở anh?

-Em có muốn nói sợ anh thay lòng thì nói thẳng. Cây cối đất trời không tội lỗi gì mà em cũng lôi vào.

-Không! Em chỉ sợ hoàn cảnh bên ngoài khiến người ta không giữ được những tư tưởng mà hôm nay người ta cho là bất diệt.

-Đó là tại lòng người không cứng rắn.

-Đã bảo là hoàn cảnh mà anh lại nói chuyện lòng người. Lòng có muốn như thế đâu, mà sự ngang trái của đời bắt buộc người ta phải nghe theo một cách miễn cưỡng.

-Anh không quen làm những chuyện miễn cưỡng. Vì đã miễn cưỡng thì tất không thú vị. Mà khi đã không thú vị thì tội gì phải làm?

-Nhưng người ta vẫn làm như thường và vẫn nói được như anh. Lời nói anh chỉ có thể ghi được trên cát.

-Nhưng thôi. Giờ không phải là lúc cãi nhau lý thuyết nữa. Nào em thử dọn đồ về.

-Nhưng anh hãy tỏ anh yêu vợ chút đi.

Huệ vừa nói vừa đưa chiếc má ửng đỏ vào môi chàng. Long bỗng nhiên ôm Huệ vào lòng siết chặt đôi môi vào má nàng. Và trong sự hòa nhạc của con tim ấy, bỗng xa xa đưa lại tiếng chắc lưỡi của con “Cắc kè” nghe rất áo não.

Nghe tiếng “cắc kè”, bỗng nhiên Huệ chồm dậy và đếm từng tiếng: “May..... Rủi..., May..... Rủi, May..... Rủi.....”. Nàng đợi thêm một tiếng “cắc kè” vang lên nữa. Nhưng Huệ ơi! Con “cắc kè” oái gở ấy đã nín bặt rồi Huệ buồn rầu thở dài:

-Hẳn là rủi rồi anh ạ!

-Kìa! Sao Huệ em có thể tin được những sự dị đoan như thế chớ. Những tiếng “cắc kè” kêu lại cũng có một điềm đặc biệt đến định mạng ta? Không! Không thể vô lý như thế được.

-Chính anh mới là vô lý. Khi em đã đặt hết lòng tin tưởng vào những tiếng kêu ấy, tất nó sẽ có một sự ứng nghiệm linh thiêng vô cùng.

-Thật vô lý. Rồi chính sự tin tưởng vô căn ấy cũng sẽ làm giảm mất một phần sinh thú của chúng ta. Thôi em đừng nghĩ gì nữa. Hãy nên nghĩ lát nữa về nhà chúng mình sẽ ăn gì?

-Thì còn cơm nguội với cá kho.

-Cơm nguội với cá kho thôi à!

-Chớ chúng ta đi chơi suốt ngày chúa nhựt hôm nay thì còn thì giờ đâu mà nấu. Vả nhà của chúng ta không có bồi bếp gì cả.

-Nhưng thà vậy còn hơn em à! Vì sự có mặt của người ở nhiều khi cũng đã làm mất một phần tự do của chúng ta.

-Em thì chỉ nghĩ tuy căn nhà của chúng mình nhỏ bé nhưng thoát được cái nạn dì ghẻ em thì đã sung sướng lắm rồi. Và để thưởng công anh đã giải thoát em khỏi ngục gia đình, em xin biếu anh chút quà bất diệt.

Huệ vừa nói, vừa kéo Long vào mình đặt lên môi chàng một chiếc hôn nồng cháy.

Long và Huệ siết nhau im lặng trong giây phút như vậy, bỗng Long phì cười:

-Không khéo đêm nay ngủ lại ao Bà Om nầy mất em ạ!

-Như vậy càng hay! Vì tự nhiên em nhớ lại một câu chuyện cổ tích.

-Lại cổ tích.

-Thật một chuyện cổ tích mà em đã nghe lóm từ hồi còn nhỏ về chiếc ao Bà Om nầy. -Nhưng anh có thích nghe thì em mới kể.

-Thích nghe kể. Nhưng không thích ngủ lại đây.

-Nầy thôi anh cầm giỏ. Có chai rượu không trong ấy, không khéo làm bể thì em mắc thường đấy.

Long xếp lại những tờ nhựt trình, những tạp chí và sách vở chàng bỏ dưới cát và bỏ vào giỏ, trong lúc Huệ nhặt rổ may nàng để trên một thân cây dầu đã bị đốn ngã và cuốn lại những cuộc chỉ đã nổ tung ra ngoài đất.

Trên đường về, Long lại gợi chuyện:

-Thế nào? Chuyện cổ tích ra làm sao?

-Thưở xưa.....

-Thưở xưa có con ngỗng bay bổng về trời hết chuyện.

-Thôi thì đành không nghe được nghe vậy.

-Không! Nghe đấy! Và rất trịnh trọng để nghe chuyện con ngỗng.

-Không! Chuyện ao Bà Om!

-À! Ao Bà Om.

-Thưở xưa, có một cuộc thách đố giữa ông Vuôn và bà Om. Hai người cùng nhau ra sức tranh tài, hẹn nhau trong một thời gian nhứt định phải đào xong mỗi người một cái ao. Của ai lớn tất là người ấy thắng.

Bà Om về chiêu tập đoàn phụ nữ cũng như ông Vuôn quyến dụ cả lực điền. Vì phải đua tranh, họ đào cả ngày lẫn đêm. Nhưng sau, bên phe bà Om cứ gần đến giữa đêm lại treo đèn lên những ngọn dầu cao của vùng Ba-Xe tức là chỗ ao bà đào.

Bọn ông Vuôn ăn uống no say cứ đến khuya thấy đèn phía Ao bà Om ngỡ là gần sáng, sao Mai đã mọc nên ngã lăn ra ngủ, trong lúc phe bà Om cứ thay phiên thức đào đến sáng. Rốt cuộc.....

-Đàn bà thắng đàn ông?

-Cố nhiên. Ao bà Om còn lại đến ngày nay ta đi chơi đây. Mà ao ông Vuôn đã lặn mất rồi.

-Đó anh thấy chưa, đàn bà cố gắng thì bao nhiêu đàn ông cũng ngã.

-Đó là luật chung từ xưa đến nay rồi. Cái nước gian xảo của bà thì còn ai mà dám bì nữa.

-Ủa! Cái anh nầy mới lạ. Khi không lại mắng cả bọn đàn bà?







XVI

Long vừa đến cửa phòng, người điều dưỡng làm dấu cho chàng bước trở ra ngoài. Long lẳng lặng rón rén bước ra khỏi phòng theo người điều dưỡng.

-Thầy ráng chăm nom người bệnh. Theo quan thầy nói thì cô Huệ khó lòng qua khỏi đêm nay. Từ giờ đến sáng, có gì lôi thôi thầy cứ lại phòng gác gọi tôi.

-Quan thầy bảo bệnh tình vợ tôi biến chuyển thế nào?

-Nếu đêm nay không có nóng lạnh thì có lẽ yên. Vì nếu nóng lạnh, cô Huệ sẽ mệt. Như vậy cô sẽ ho nhiều và máu lại ra thì cô khó lòng chịu nổi.

Long sa sầm nét mặt. Chàng chỉ còn biết thở dài và cố nén một giọt lệ trên mi mắt.

-Cám ơn thầy. Nếu có gì, mong thầy sẵn lòng dùm.

-Thầy cứ an tâm. Đó là phận sự tôi.

Người điều dưỡng bước đi còn ngó ngoái lại nói với Long:

-Đêm nay cô còn nói sảng nhiều hơn. Nhưng thầy đừng sợ vì bệnh phải như thế. Nếu cô Huệ có ho ra máu nhiều nữa và đàm có làm cô khó thở, thầy lập tức cho tôi hay.

Người điều dưỡng bước đi. Long buồn rầu bước vào và ngồi nhẹ xuống ghế để gần cửa sổ. Cái vẻ êm tịnh của một bịnh viện bắt chàng rùng mình.

Bên kia, nóc nhà thờ cao vút chỉ thẳng lên trời với cây thánh giá khổng lồ. Và gần đấy, những nóc chùa thổ với những góc cong cong và những tượng đá đủ màu bắt Long nghĩ đến cuộc đời của mấy thầy tu, mấy ông sải.

Cái cảnh yên tịnh của những ngôi chùa hùng vĩ, của những nhà thờ huy hoàng gợi ở lòng chàng một ý nghĩ đi tu.

Phải! Ta quay cuồng chém giết ở cuộc thế nầy để làm gì, để phải chịu bao nhiêu cái lo, cái buồn, cái khổ mà khi nhắm mắt xuôi tay còn lại được cái gì? Một chút danh chăng? Một chút lợi chăng? Nào bao nhiêu ấy có bù đắp nổi cái sầu khổ của linh hồn ta đâu?

Trong những ngôi chùa nầy, ta sẽ làm gì?

Ta tu chăng? Ta có yên tịnh được chăng?

Ngôi chùa nầy còn tốt hơn ngôi chùa kia, nhà thờ nầy còn to hơn nhà thờ nọ tất là còn cuộc ganh đua rồi. Mà còn ganh đua thì chưa chắc những kẻ đã bó mình trong chiếc áo cà sa kia là được an nhàn tịnh độ.

Không! Không thể nào Long tu được rồi.

Không tu, nghĩa là nhận sự tranh đấu của kiếp sống. Và trong sự tranh đấu ấy, kìa thân hình Huệ, vợ chàng chỉ còn xương bọc da, kìa máu trong miệng Huệ đã thỉnh thoảng cuồn cuộn lên sau những cơn ho dữ dội.

Long nghĩ vẩn vơ quên rằng Huệ đã mở mắt nhìn chàng tự lúc nào. Long quay lại thấy vợ nhìn mình, chàng ứa nước mắt, bước lại gần giường Huệ.

Huệ nắm tay chàng muốn đưa lên môi hôn. Nhưng nhớ ra mình là môt bệnh nhân hết sức ngặt nghèo, nàng lại buông tay Long ra sợ truyền nhiễm.

Nàng ráng lấy hết sức tàn mấp máy:

-Anh Long! Em xin lỗi anh.

-Không. Chính anh đã làm khổ em nhiều. Nhưng thôi, nhắc lại chuyện cũ làm gì, số phần mình khốn nạn. Em cố dưỡng bệnh cho mạnh là em thương anh đấy.

-Em thấy trong mình bực nhọc quá. Có lẽ không sống được nữa!

-Em chỉ nói nhảm.

-Không. Em rất hiểu trong người em. Em chỉ xin anh tha lỗi cho em đã làm cho anh khổ tâm hơn tháng nay. Thật ra chúng ta đã bước sai ngã đường. Giá em cứ đành phận em một kẻ nghèo hèn có yên hơn không.

-Chính anh cũng không nghĩ có thể xảy ra những chuyện tày trời như vậy.

-Em không phiền anh. Em cũng không phiền chị Năm anh, một người chị rất yêu anh và không muốn anh đi lầm đường.

-Thế nào là lầm đường. Không cưới vợ giàu sang là lầm đường sao? Chính hôm chị Năm anh xuống, anh cũng tưởng là chị Năm anh sẽ khuyên can anh thôi. Anh có dè đâu chị ấy hung tợn đến đỗi đập cả đồ đạc nhà mình, ăn nói như người mất dạy và gây loạn trong nhà mình để đến đỗi em phải ốm.

-Anh không nên phiền trách chị Năm vì chị đã làm tròn phận sự một người chị đúng theo khuôn khổ của thời đại.

-Thời đại! Thời đại! Cái thời đại hủ lậu như vậy cũng không nên tồn tại làm gì!

Long còn muốn nói nữa. Nhưng xa xa, chàng nghe tiếng hát vang.

Tiếng hát lại vang lên trong buổi chiều, hùng hồn và sôi nổi như lòng chàng đang cuồn cuộn sóng.

Người ta hát gì! Những lời ca của núi sông!

Tiếng hát nghe hăng hái quá, thúc giục quá.

Nó vang lên như để lấp mất dấu vết của một thời gian cũ kỹ.

Kìa quân Nhựt đầu hàng mấy ngày rồi. Người ta đang lo chuẩn bị cuộc giải phóng dân tộc.

Tiếng hát lại vang lên với những lời ca đã vắng trong linh hồn một dân tộc từ lâu đời.

Tiếng hát lại ngân nga trong buổi chiều, đi thẳng vào linh hồn suy nhược của người.

Tiếng hát mạnh mẽ, trào đầy nhựa sống.

Huệ cũng lắng tai nghe và hỏi Long:

-Gì đấy anh?

-Thanh niên đang tập dượt.

-Thế nào lại có những tổ chức ấy được hở anh?

-Quân Nhựt đầu hàng mấy hôm rồi. Và phong trào giải phóng vừa xuất hiện.

-Thú quá! Nhưng em lại đau ngặt nghèo.

-Và anh mạnh mà cũng như tàn tật. Mải lo chống chỏi cuộc đời đầy những bất công, anh đã mất một phần lớn của năng lực anh rồi.

-Nếu em có chết đi, em chỉ mong cho anh đem cái còn lại ở người anh tranh đấu cho một ngày mai tươi sáng hơn. Chừng ấy, trong cái xã hội tiến hóa ấy có lẽ sẽ không còn một con Huệ, nạn nhân của giai cấp nữa.

-Thôi, em nghỉ đi, em không nên nói nhiều.

-Em chết là chuyện dĩ nhiên rồi. Còn anh, anh nên lựa một cái chết nào xứng đáng hơn. Em chết vì em không chịu nổi cái sự bất công của xã hội. Thì anh có bổn phận đạp bằng những cái bất công ấy được phần nào là anh đã làm cho em hả dạ được phần nấy rồi.

Huệ muốn nói nữa.

Nhưng tiếng hát lại vang lên, hùng tráng và anh dũng làm cho đôi mắt tối tăm của Huệ nổi bật lên một ánh sáng của sự sống ở ngoài kia.

Huệ đoán chừng như ngoài kia cái gì cũng mới lắm, mới từ những bảng chỉ đường đến những tấm giấy tuyên truyền dán tường.

Nàng vui lên. Trên đôi má cóp của Huệ, bỗng nở nụ cười thành thật, mặc dầu đã mờ tối lắm dưới bóng tử thần.

Nhưng cùng một lúc, đầu nàng choáng váng, tai nàng chừng như còn văng vẳng những câu nói: “Tội nghiệp! Cô buông tha dùm thằng Long. Chúng tôi không dám nhận làm chị chồng cô vì chúng tôi hèn hạ quá!...”.

Máu trong miệng nàng lại chảy ra sau mấy tiếng ho lồng phổi. Long bước lại đỡ Huệ. Nhưng Huệ lại khoát tay Long và cố sức mấp máy môi từng tiếng một:

Em.....chết..... là..... vừa.







XVII

-A lô! A lô! Ai cầm dây nói đó?

-Tôi, Nguyễn Toàn Thắng.

-À! Anh Toàn Thắng đấy hả? Sao? Thế nào? Anh Toàn Thắng có giữ vững cái tên anh hôm nay chăng?

-Sao lần nào anh cũng hỏi tôi câu ấy cả anh Trường Sơn (tức là tên mới của Long). Anh lại cứ nghi ngờ ở tài tôi à!

-Không! Tôi hỏi chơi ấy mà. Tôi biết còn anh Toàn Thắng là mặt trận Đồng Miễu không thế nào lay chuyển nổi.

-Có thế chớ! Để tôi lại can đảm lên. Nhưng nầy, cho đem gấp ra ngay một bao đạn 13,2. Cần lắm anh Trường Sơn nhé!

-Được. Để tôi hỏi Quân nhu coi còn không?

Long đặt ống nói xuống bàn, bấm chuông. Anh Hoàn phòng bên chạy sang:

-Anh gọi tôi?

-Phải. Anh lập tức hỏi anh Trưởng phòng Quân nhu coi còn đạn 13 ly 2 cho một bao.

Hoàn bước ra độ năm phút trở lại với 2 người Vệ quốc mang một bao đạn. Hoàn bảo họ đặt dưới bàn:

-Anh Trường Sơn nhớ kỹ bao đạn chót 13,2 nhé! Vậy anh nên giục sở cơ khí Bàu Sen có bao nhiêu đem lần đến thì vừa.

-Được, anh để tôi và lập tức sang phòng Giao thông đem bao đạn nầy giao cho phân khu Đồng Miễu.

Long lại cầm ống nói lên:

-A lô! Đồng Miễu.

-Có tôi đây.

-Tôi đã cho mang xuống anh bằng ca nô liền đấy nhé! Có cần gì nữa chăng?

-Thôi chào anh!

Long vừa đặt ống nói xuống kế chuông reo lên.

Long lại cầm lên:

-A lô! Ai đấy?

-Việt Hùng, phân khu Chắc Băng.

-À! Chào anh Hùng. Mạnh đấy chớ?

-Đau thế nào được. Phân khu Ngăn Dừa đã rút lui rồi anh hay chớ?

-Cũng vừa mới hay đêm hôm vì bị dây nói cắt đứt.

-Sao? Có gì lạ?

-Vẫn êm tịnh. À nầy! Cho anh hay trước. Có đoàn liên lạc miền Đông xuống nhé!

-Đã đến tới đây rồi và đã đi hồi sáng. Có lẽ lát nữa họ sẽ đến anh.

-Họ xuống để làm gì?

-Tôi không được biết. Nhưng lát nữa họ đến anh cũng không muộn.

-Có thế thôi?

-Chào anh.

Tổng hành dinh Khu Chín hôm nay rộn rịp lắm vì từ sáng giờ, năm chiếc máy bay đối phương không để yên cho Long thở tí nào.

Long đang ngồi thống kê tình hình các mặt trận cho Khu Bộ Trưởng thì người vệ quốc giữ việc canh phòng vào chào Long nói:

-Có đoàn liên lạc miền Đông xuống.

-Anh đã xem xét giấy tờ cẩn thận.

-Tình Báo Trưởng đã xem xét rồi và cho người đưa sang đây.

-Anh cứ cho họ vào!

Người vệ quốc bước ra mời. Đoàn liên lạc vào phòng Long.

Bỗng nhiên, Long sửng sốt. Trong đoàn ấy có ba người, hai chàng trai và một cô gái mà Long nhận ra là Ngôn.

Ngôn cũng ngạc nhiên lùi lại sau hai người kia và đứng sững nhìn Long.

Long nhìn Ngôn. Bốn mắt nhìm nhau trong sự bằng lòng và kinh ngạc.

Long cố làm ra bình tĩnh hỏi ba người ấy trong lúc lòng chàng rộn lên:

-Chào các anh chị.

Và quay về phía Ngôn:

-Có phải chị là Ngôn không?

Một người trong bọn:

-Anh lại quen với chị Giác Ngộ của chúng tôi à?

Không, tôi chỉ quen với chị Ngôn. Mà xin lỗi, không biết chị có phải là chị Ngôn không? Hay tôi lầm.

Ngôn nghẹn ngào, sung sướng đến rơi nước mắt. Mọi người đều sửng sốt với sự gặp gỡ cảm động ấy. Nhưng họ đã đoán hiểu và họ lảng ra nói với Long:

-Thôi, xin để anh chị nói chuyện nhau đã. Lát chiều, chúng tôi sẽ gặp Khu Bộ Trưởng không muộn gì.

-Cám ơn các anh chị và xin phép anh chị cho chúng tôi được tự do trong giây phút. Và anh Hoàn hãy xem chừng phòng giấy dùm tôi nhé!

-Anh cứ tự tiện.

Long nắm tay Ngôn ra khỏi phòng giấy và chỉ chiếc ghe tam bản ở dưới kinh bảo với Ngôn:

-Nhà tôi dưới kia, trên dòng nước xanh ấy.

Ngôn cảm động, không nói một tiếng nào. Nàng thong thả bước song song với Long đến bến thuyền.

Long êm ái:

Mời em xuống trước!







ĐOẠN KẾT

Đêm nay không sương. Trời lại mát và có trăng. Long trải chiếu trước mũi thuyền, bày ra hai cái chén và một bình trà. Chàng lại lấy ra một bánh thuốc rê và cuộn giấy nhựt trình làm giấy vấn thuốc hút.

Ngôn mỉm cười:

-Anh làm tôi có cảm giác là một buổi tiệc.

-Không buổi tiệc trà hội ngộ chớ là gì! Đêm nay, trời sáng. Thế nào đối phương cũng không dám tấn công ta. Tất nhiên, chúng ta cũng chỉ phòng thế thủ. Vậy ta có thể tạm yên, uống trà thưởng trăng đêm nay.

-Anh lại định làm thơ?

-Không, tất cả cái gì ở đây cũng là thơ rồi!

-Anh làm như chúng ta đang ở thời bình.

-Thời bình cũng như thời loạn, ai có quyền cấm tôi sau khi làm tròn bổn phận, có đôi phút trầm mặc để lắng xuống đáy linh hồn. Em Ngôn! Thật ra, chính anh không sao nghĩ được cuộc gặp gỡ bất ngờ nầy.

-Mà em cũng thế.

-Anh cứ tưởng ngay bây giờ anh đang cơn mộng. Em có thể cho anh biết những việc xảy ra sau khi anh lìa bỏ tỉnh X..... chăng?

-Sau khi anh đi, em như người ngây. Em thù hết thảy mọi người. Em không thể sống được trong sự rình mò của gia đình. Em lại xin đi Hà-nội học làm “cô đỡ”. Em nghĩ trong sự xa xôi đó em có thể khuây khỏa được. Nhưng hình ảnh anh cứ đeo đuổi mãi theo em. Có lúc em muốn viết thư cho anh. Nhưng anh thay đổi chỗ như đổi áo. Vả lại em cũng không muốn nói gì với anh nữa mà chỉ cần chứng tỏ bằng việc làm. Em định bụng học thành tài em sẽ.....

-Lấy chồng giàu sang.

-Sao anh lại can đảm đùa cợt trên sự đau đớn của em như thế? Em định thành tài, em sẽ đi làm sống riêng một thân em. Chừng đó, em sẽ tìm anh và chúng ta lại sống.

-Lại sống! Em làm như anh vẫn một lòng chung thủy.

-Không chung thủy càng hay. Vì em sẽ nhận thấy giá trị của việc mình làm. Nhưng học được hơn một năm, sự thế đã đổi hẳn. Thời cuộc đã mở đường. Dưới sự lãnh đạo của các sinh viên hăng hái, em xếp bút nghiên theo họ lên đường đao cung. Em tình nguyện hiến thân cho Tổ quốc. Em không ngờ đến cái phút không còn được gì thì lại gặp anh.

-Trời đã ban phước cho anh.

-Và cho em nữa.

Mấy cây dừa bên bờ kinh cảm động nghiêng đầu rung rinh trước gió. Những lá dừa khua nhau xào xạc như đang bàn chuyện tâm tình. Và ở những bụi cỏ gần bên ghe Long, đôi con dế tí te như say sưa trong thú ái ân.

Trong khung cảnh mộng và thơ ấy, xa xa là những cảnh rừng tràm thâm thẳm đến im lìm như ngủ mê man trên những thửa ruộng tràn đầy ánh bạc.

————————————————

[1] Trích tập Tiếng lòng xuất bản năm 1942.

[2] Trích tập Tiếng lòng xuất bản năm 1942.

[3] Những câu bất hủ trên đời.
Là câu tuyệt vọng với lời đau thương.
(Băng Dương dịch).

[4] Thơ của Hồ Dzếnh trong “Quê ngoại”.

[5] Thơ Xuân Lữ.

[6] Cing six, dix douze. Tức là mượn năm đồng thì tới kỳ lương phải trả sáu, còn mượn mười đồng phải trả lại mười hai.

[7] Nói theo điệu đánh bài “Ngầu hầm”, có lá phí tức là có lợi nhiều, có thể tin sáu hoặc ba, nhưng mạc dầu, người ta vẫn kiếm ra được Ngầu nào hết.

[8] Poignard: Dao găm.