Nguyễn Kiến Thiết
Hát huê tình nghĩa là gì? Đã có những tác giả nào giới thiệu, nhận định về câu hát huê tình? Nội dung và Nghệ thuật gồm những đặc điểm gì. Chúng tôi sẽ lần lượt bàn đến trong bài “Vài Nét Về Câu Hát Huê Tình Ở Nam Kỳ” như dưới đây.
*Định nghĩa:
Huê tình - còn gọi Hoa tình: “Lẳng lơ trai gái” (Việt Nam Từ Điển, tr.239), là “Lời trai gái chọc ghẹo nhau, dâm từ, những câu hát ghẹo” (Đại Nam Quấc ÂmTự Vị [ĐNQATV], tr.428). Hát huê tình là “hát lời nói xa gần làm cho cảm động ý nhau, cùng là chọc ghẹo nhau” (ĐNQATV, tr.410).
Gặp lúc trăng thanh gió mát
Thú nào vui bằng thú hát huê tình
Trời xui hội ngộ hai đứa mình kết duyên.
Người miền Bắc gọi lối hát nầy là Tự tình, Hát hoa tình hoặc Hát trao tình tức là “những bài hát hoa tình giữa trai và gái trao đổi nhau những khi có dịp gặp nhau”[1].
Toan Ánh cũng gọi lối hát nầy là Hát trao tình. Hát trao tình gồm có hát ví, hát quan họ, hát trống quân và những biến thể của nó tùy từng vùng, từng nơi như hát ở hội, hát giải, hát vận, hát đố, hát cò lả, hát các phường (phường vải, phường củi, phường cấy, phường buôn), hát giặm (hát giặm ứng khẩu, hát giặm thời sự, hát giặm vè) và hò Huế (hò mái nhì, mái đưa, mái đẩy), hò miền Nam (hò cấy, hò chèo thuyền). Riêng ở các tỉnh vùng trung châu Bắc Việt, những giọng hát trao tình nầy gồm có ba loại chánh là Hát ví, Hát quan họ, Hát trống quân và những biến thể của nó[2]. Theo Thuần Phong, Hát huê tình thông dụng nhiều nhứt ở miền Nam, còn gọi là hát đố, hát đối đáp, hát chèo ghe[3].
Chúng tôi có thể cắt nghĩa như sau: Hát Huê tình ở Nam Kỳ là hát đối đáp trao đổi nhau giữa đôi trai gái hay giữa hai phe nam nữ “những khi có dịp gặp nhau” trên sông rạch, trong những lúc cùng làm việc ngoài đồng áng, trên sân nhà, trong các lễ hội, trong những dịp thi tài cao thấp. Hát huê tình ở đây là “hát lời nói xa gần làm cho cảm động ý nhau”, không hẳn là “lẳng lơ trai gái” cùng không dùng những “dâm từ” để “chọc ghẹo nhau”. Từ “cảm động ý nhau” sẽ dẫn tới tình bạn rồi tình yêu và hôn nhân là lẽ đương nhiên. Nam Kỳ Lục Tỉnh là vùng đất mới mầu mỡ phì nhiêu, với ruộng đồng “cò bay thẳng cánh”, với cây lành trái ngọt, sông nước hữu tình, cho nên mặc dầu nơi đây không có nhiều hội mùa như ở miền Bắc[4], nhưng những câu hò điệu hát - đặc biệt là hát huê tình - đã phát triển không ngừng và tạo thành một loại hình dân ca độc đáo ở miền Nam. Câu hát huê tình phát triển mạnh ở Miệt Vườn đồng bằng sông Cửu Long, nằm trong hệ thống ngũ cung hơi Nam giọng Oán và phảng phất hơi hướm ca dao miền Trung. Ta có thể tìm được sự liên hệ giữa điệu hát bài chòi (Trung) và điệu nói thơ Vân Tiên (Nam), giữa điệu hò mái đẩy (Trung) và các điệu hò ở Cái Bè, Cai Lậy (Nam)[5].
*Thư mục:
Câu Hát huê tình ở miền Nam thật dồi dào phong phú, nhưng vì nó là một thứ dân ca truyền khẩu nên khi lưu hành, biên soạn đã bị tam sao thất bổn khá nhiều. Một số lớn câu hát đã bị chìm sâu vào trong quên lãng. Để làm sống lại những câu hát đang ngoắc ngoải chờ ngày tắt nghỉ cũng như nhằm mục đích bảo vệ cái di sản lý thú của ông cha, một vài bậc thức giả đã để công sưu tầm, biên soạn, phổ biến câu hát huê tình. Chúng tôi thử thiết lập một thư mục sau đây mặc dầu chưa đầy đủ hoặc tồn nghi.
- Đặng Lễ Nghi: Câu Hát Huê Tình, 1907 (?).
- Văn Tư: Câu Hát Huê Tình, 1923.
- Đinh Thái Sơn: Câu Hát Huê Tình. Sài Gòn, Xưa Nay xb. 1928.
- Nguyễn Công Chánh: Câu Hát Huê Tình: có ý vị và có tình nghĩa, bổn cũ soạn lại. Chợ Lớn, Thuận Hòa xb. 1956, 18 trang.
- Đinh Thái Sơn: Câu Hát Huê Tình. Chợ Lớn, Thuận Hòa xb. 1966, 18 trang (Chúng tôi có trong tay và sử dụng văn bản nầy).
Nơi bìa 1 có ghi hàng chữ nêu rõ mục đích của người soạn: CÂU HÁT HUÊ TÌNH, có ý vị và có tình nghĩa. Góp nhặt những câu hát hoặc kim hoặc cổ để cống hiến cho nam nữ thanh niên lao động cơn hành sự ngâm nga đặng quên cả vất vả và mệt nhọc.
Cuối bìa 1 có ghi:
CÂU HÁT: Cần câu trúc sợi nhợ bạc, cái lưỡi câu đồng
Nầy bớ bạn ôi! Anh móc mồi con chim phụng câu rồng trên mây.
- Đặng Lễ Nghi: Câu Hát Huê Tình (Tân Soạn). SG, Xưa Nay 60-64 Boulevard Bonard Saigon (Nguyễn Háo Vĩnh)
8e Indochine Pièce, 1932
Chủ bút: Đặng Lễ Nghi
Bổn nầy M. Đinh Thái Sơn nhường đứt quyền xuất bản cho tôi [Đặng Lễ Nghi]
Chủ bổn: Phạm Văn Thình
- Sách dày 18 tr. Đầy đủ 361 câu
- In lần thứ ba Mỗi cuốn 0$30
- Bìa 1: Thôi thôi đây anh hát huê tình
Đêm thanh trăng rạng, bạn mình đối chơi.
- Khấu Võ Nghi: Hát Huê Tình Đối Đáp, 1933 (?).
- Nguyễn Kiến Thiết: Câu Hát Huê Tình Ở Miền Nam. Nghiên Cứu Văn Học, số 8 tháng 10/1971, tr.76-102.
- Nguyễn Kiến Thiết: Tánh Cách Đặc Thù Của Ca Dao Miền Nam (mục Hát Huê Tình). Luận án Cao học Văn chương. Đại học Văn Khoa Sài Gòn 1972, tr.103-111.
- Nguyễn Tấn Bi: Tiếng Hát Huê Tình Trên Ruộng Đồng Miền Nam. Đồng Nai-Cửu Long, số 9 tháng 9/2008, tr.273-280.
- Hà Phương Hoài. Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design Câu Hát Huê Tình (http://e-cadao.com), 2003.
- Huỳnh Ngọc Trảng – Phạm Thiếu Hương: Tổng Tập Văn Học Dân Gian Nam Bộ - Ca Dao-Dân Ca Nam Bộ. Quyển 4. Nxb Tổng Hợp TP/HCM, 2022.
Nhìn chung, những công trình của các tác giả trên đây chỉ góp nhặt, sưu tầm và phổ biến Câu hát huê tình. Các ông Đinh Thái Sơn, Đặng Lễ Nghi, Nguyễn Công Chánh đã giới thiệu đầy đủ 361 câu hát huê tình.
Các tác giả Huỳnh Ngọc Trảng - Phạm Thiếu Hương (Nhóm HNT) đã sao chép đầy đủ 361 câu hát huê tình của Đinh Thái Sơn (sách đã dẫn). Có mấy chi tiết đáng để ý:
- Trong Lời giới thiệu, Nhóm HNT đã viết: “Các văn bản được chọn đưa vào sách đều giữ nguyên bản trừ một số trường hợp thấy cần phải chỉnh lý (…). Rất mong nhận được sự chỉ bảo của bạn đọc” (tr.10). Thay vì mặc áo thụng vái nhau, chúng tôi không dám “chỉ bảo” mà chỉ mạo muội góp vài ý kiến nho nhỏ. Chẳng hạn như Nhóm nầy khi sửa lỗi chánh tả hoặc “chỉnh lý” đã không ghi chú những chữ sai hoặc tùy ý thêm/bớt một, hai chữ. Sự thiếu cẩn trọng nầy sẽ gây khó khăn cho giới nghiên cứu trong việc tham khảo. Thí dụ:
Câu 361: “Tại thiên nguyện tác bỉ dực điểu / Tại địa nguyện tác liêng lý chi” (nguyên văn bản gốc CHHT). Đây là một trong những trường hợp “tam sao thất bổn”. Dân gian hát huê tình (hoặc người biên soạn) vì “nghe lóm” nên đã đổi chữ tỷ thành chữ bỉ ở câu đầu, cũng như đổi chữ vi thành tác và in sai chánh tả chữ liên (không phải liêng) ở câu sau.
Thật ra đây là hai câu thơ lấy trong bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị, nguyên văn là:
Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu,
Tại địa nguyện vi liên lý chi.”
在地願為連理枝
Trường hận ca là một danh tác của Bạch Cư Dị (772-846), một nhà thơ nổi tiếng thời Đường. Trong bài nầy, ông sử dụng bút pháp ước lệ tự sự, đem lịch sử cùng điển tích văn học, thông qua câu chuyện giữa vua Hán Võ Đế (Lưu Triệt) và Lý phu nhân, nhưng dụng ý miêu tả câu chuyện tình yêu giữa Đường Huyền Tông (tức Đường Minh Hoàng) và Dương Quý Phi.
Nhóm Huỳnh Ngọc Trảng đã “tam sao” cái sai của bản gốc CHHT, nghĩa là trong câu 7 chữ (trên) không đổi chữ bỉ thành chữ tỷ cho đúng câu thơ của Bạch Cư Dị (sách đã dẫn, tr.230). Đó là chưa kể Nhóm nầy đã biến câu 7 chữ (dưới) thành câu 8 chữ bằng cách tự ý thêm hai chữ tác và bỉ (đáng lẽ là vi). Thành ra câu 361 “tam sao” của Nhóm HNT lại biến thành: “Tại thiên nguyện tác bỉ dực điểu; Tại địa nguyện tác bỉ liên lý chi”.
Còn Nguyễn Tấn Bi nhận xét sơ khởi về Câu hát huê tình và gọi Tiếng hát huê tình là “Những câu đối lắt léo” (chữ “câu đối” ở đây chưa hoàn toàn đúng). Toàn bài báo 8 trang (tr.273-280) của ông đã đi xa đề khi bàn về Câu đối, Hát/Hò đối đáp và thể nói lái (ông gọi là nói láy) và dẫn hầu hết ca dao miền Nam (khoảng 99%). Ông chỉ dẫn một câu trong 361 câu hát huê tình mà không ghi số thứ tự. Đó là câu 301: “Con cá đối nằm trên cối đá; Con mèo đuôi cụt nằm mục đuôi kèo / Anh mà đối đặng dẫu có nghèo em cũng ưng” (tr.276). So với bản gốc CHHT in là: “301 – Con cá đối để trên cối đá; mèo đuôi cụt nằm mục đuôi kèo, bớ anh ôi, Anh mà đối đặng dẩu [dẫu] nghèo cũng ưng” (tr.15). Chỉ Nguyễn Kiến Thiết (NKT) đã để ý nhận định và phân tích sơ khởi về Nội dung và đặc điểm Nghệ thuật của Câu hát huê tình. Ông cũng ghi rõ xuất xứ từ nguyên bản gốc tập sách mà ông may mắn có trong tay. Khi dẫn các câu hát huê tình, NKT ghi số thứ tự hẳn hoi cũng như sửa một số lỗi chánh tả và chú thích rõ ràng. Thí dụ:
- Câu 18: Ngày ngày qua lại em anh, bớ bảy ôi, có su có lúi mới thành gió trăng.
Ông đã chú thích chữ “su”: đáng lẽ phải viết “xu” (tr.80, báo đã dẫn). Có thể nói NKT là người đầu tiên nhận định, đánh giá về Câu hát huê tình từ năm 1971. Tuy nhiên đây là công việc tiên phong, tài liệu/văn bản còn hạn chế nên chưa đủ độ sâu, rộng của một bài biên khảo văn học. Cho tới nay chúng tôi không hoặc chưa thấy tác giả nào khác biên khảo về Câu hát huê tình theo đúng nghĩa của nó. Ước mong các bậc thức giả vui lòng bổ khuyết. Xin đa tạ.
*Đặc điểm về Nội dung và Nghệ thuật:
Để tránh khiếm khuyết dẫn trên, nhằm mục đích giúp cho giới nghiên cứu phê bình văn học (không/chưa có văn bản in trong tay) tiện việc tham khảo, chúng tôi không ngần ngại giới thiệu bài biên khảo nầy. Chúng tôi sử dụng bản CÂU HÁT HUÊ TÌNH của Đinh Thái Sơn, Chợ Lớn, Thuận Hòa xb. 1966, 18 trang (nơi dưới câu 361 có in chữ “CHUNG”) để phân tích về Nội dung và đặc điểm Nghệ thuật. Trong khi phân tích Nội dung đã mặc nhiên nói đến Nghệ thuật, cái nầy bổ sung cho cái kia; và ngược lại.
Hát Huê tình là hát đối đáp trao đổi nhau giữa trai và gái “những khi có dịp gặp nhau”. “Dịp gặp nhau” đó có khi là để “đối chơi” cho vui (Đêm thanh trăng rạng, bạn mình đối chơi); có khi để “ngâm nga đặng quên cả vất vả và mệt nhọc” trong khi lao động. Và cũng có khi để “kết duyên”, như duyên bạn bè, duyên chồng vợ (Thú nào vui bằng thú hát huê tình; Trời xui hội ngộ hai đứa mình kết duyên). Hát Huê tình cũng giống hát Quan họ là “một loại hình dân ca phong phú về giai điệu”, nhưng có điểm khác biệt là trai gái quan họ mặc dầu để ý thương nhau nhưng chỉ xem nhau như bạn bè (bạn hát) và các “liền anh”, “liền chị” thường là không được phép cưới hỏi nhau. Trái lại chung cuộc của Hát Huê tình vẫn là tình yêu nam nữ. Tình yêu đôi lứa của người dân Lục tỉnh thể hiện ở nhiều cung bậc, dạng thức khác nhau. Bối cảnh là nông thôn Nam Kỳ. Nói khác đi đó là thứ tình yêu thôn dã. Nơi bắt đầu của tình yêu thôn dã thường là trong lao động sản xuất, từ trong sân nhà (xay lúa, giã gạo), trên đồng ruộng bao la (cấy lúa, gặt lúa) đến sông nước hữu tình giữa “trai thương hồ” và “gái bán vàm” (Hai đứa mình ngồi xuống một ghe; Khoan khoan ngớt mái để nghe huê tình). Cũng có khi qua những cuộc hò hát đối đáp trong một vạn cấy, trong mùa gặt, trong các cuộc thi hò hát đối đáp, các chàng trai - cô gái có dịp gặp gỡ, trò chuyện, để ý thương nhau: “Sông sâu sóng bủa láng Cò; Thương em vì bởi câu hò có duyên”...
Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi theo các quy tắc sau đây:
- Đánh số câu trích dẫn và ghi ở đầu hàng.
- Cuối các câu 4 - 5 – 6 – 7 chữ phải xuống hàng.
- Như vậy các chữ đầu câu của hàng kế tiếp đều viết chữ hoa.
- Chữ đầu mỗi “cụm” tiếng đệm như “bớ em ôi”, “bớ bậu ôi”, “bớ quân tử ôi” đều viết hoa và mỗi “cụm” đều in đậm, chữ nghiêng.
- Những chữ sai chánh tả đều được sửa đúng, in đậm, chữ nghiêng và chú giải cẩn thận. Riêng các chữ còn gây tranh cãi hoặc sử dụng theo thói quen từng vùng miền hay phương ngữ thì vẫn giữ nguyên (duơn, nguơn, ngãi, ngỡi, quới, thoàn, kiểng ...).
- Các địa danh, nhân danh trong bản gốc sẽ bỏ gạch nối, được in đậm, chữ nghiêng và đều in chữ hoa. Chẳng hạn:
(câu 29). Năm canh qua lăn lộn phòng loan
Bớ em ôi, Bậu về Vĩnh Long nọ dặm đàng xa xuôi (nguyên bản in sai “Vỉnh-long”). - Trường hợp sách in sai từ Hán-Việt, cách ngôn Khổng-Mạnh hoặc điển tích đều được sửa lại, in đậm, chữ nghiêng và ghi chú hẳn hoi.
Cũng như ca dao cả nước, cái “tôi” trữ tình trong Câu hát huê tình thể hiện những cảm xúc “chủ đạo”, tinh tế và đa dạng. Từ “tôi”/ “tui” dẫn đến những cặp nhân xưng đại từ đối xứng trong cách xưng hô của người bình dân: “tui”/ “mình”, “qua”/“bậu”, “anh/em”, “chàng”/“thiếp”, “quân tử”, “anh hùng”/“thuyền quyên”, “người nghĩa”, “nhơn tình”, “cựu tình”...
Một vài thí dụ:
- (câu 7) “qua”/“bậu”: Bây giờ cầu xây nọ nó thôi xây,
Thời qua với bậu dứt dây cang thường (nguyên bản: “can”). - (câu 285) “Thuyền quyên”/“anh hùng”: Thân em mỏng mảnh, quê cảnh lạ lùng,
Thuyền quyên mong sánh anh hùng,
Bớ anh ôi, Lại e như nàng Kiều nọ, bạn cùng Thúc Sanh [Sinh].
Điều đáng lưu ý là Câu hát huê tình được làm theo mọi thể loại thơ: từ tứ tự, ngũ ngôn, lục ngôn đến lục bát, lục bát biến thể rồi đến song thất, song thất biến thể hoặc hỗn hợp hai ba thể trên một cách phóng túng. Những tiếng đệm như: bớ mình ôi, bớ anh ôi, bớ bậu ôi, bớ ai ôi, bớ em ôi, bớ nàng ôi, bớ nhơn tình ôi, v.v... được lồng vào trong câu hát một cách ý vị và duyên dáng:
- Bớ bậu ôi (câu 12): Chỉ tơ đứt mối thình lình
Bớ bậu ôi, Vì nghèo nên phải xa mình sanh phương. - Bớ nhơn tình ôi (câu 42): Tiếc công anh vun quén cây tùng
Bớ nhơn tình ôi, Anh săm soi trên ngọn, dưới gốc sùng không hay...
Hát huê tình là một loại hát đối đáp giữa nam và nữ; nhưng tại sao trong những câu do chính người bình dân hát lại có những từ Hán-Việt, cách ngôn Khổng Mạnh và điển tích Trung Hoa?
Như chúng ta đã biết, Nam Kỳ là vùng đất mới, nhưng mọi lãnh vực đều “khởi sự/khởi xướng” ở miền Nam: Từ chữ quốc ngữ, văn học chữ quốc ngữ, báo chí, tiểu thuyết rồi thơ, thơ mới, dịch thuật (đặc biệt sách Tàu, truyện Tàu) đến văn nghệ kháng chiến, tự truyện, thoại kịch... nhứt nhứt đều bắt đầu tại Lục Tỉnh. Nói khác đi Nam Kỳ đã đóng vai trò tiền phong của văn nghệ miền Nam. Khi phân tích Câu hát huê tình, chúng tôi muốn nhấn mạnh vai trò chữ quốc ngữ và phong trào dịch sách Tàu, truyện Tàu (ra chữ quốc ngữ) vào đầu thế kỷ XX đã ảnh hưởng rất lớn đến hò hát.
Chữ quốc ngữ - tức tiếng Việt viết theo mẫu tự Latin - được truyền sang nước ta vào cuối thế kỷ XVII do các giáo sĩ phương Tây nhằm mục đích phục vụ cho truyền giáo; và “người Nam kỳ là những người Việt Nam đã dùng chữ Quốc ngữ trước nhất” (Vũ Ngọc Phan: Nhà Văn Hiện Đại, 1941, tr.37). GS Thanh Lãng cũng đã khẳng định: “Chữ quốc ngữ được công nhận và phổ biến trước nhất ở miền Lục tỉnh...”[6]. Các dịch giả Sách Tàu sang quốc ngữ tiêu biểu có Đoàn Trung Còn dịch Minh Đạo Gia Huấn do Trình Di đời nhà Tống biên soạn; Trương Vĩnh Ký phiên dịch Minh Tâm Bửu Giám được biên soạn từ cuối đời nhà Tống. Truyện Tàu - tức tiểu thuyết chương hồi hay “tiểu thuyết cổ điển” của Trung Hoa. Dịch giả truyện Tàu sang chữ quốc ngữ đầu tiên là một người Pháp, Canavaggio, chủ báo Nông Cổ Mín Đàm dịch Tam Quốc Chí Tục Dịch đăng từ số báo ra mắt (1/8/1901). Nhưng theo Vương Hồng Sển trong Thú Chơi Sách, người dịch Truyện Tàu đầu tiên chính là cụ Dũ Thúc Lương Khắc Ninh (1862-1943). “Những tay dịch thuật trứ danh ở Nam Kỳ” với số lượng nhiều nhứt chính là ba ông Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc và Nguyễn An Khương. Nhà phê bình văn học Nguyễn Vy Khanh (dẫn sách của Bằng Giang) cho rằng: Nguyễn Chánh Sắt đã dịch Tây Hớn rồi Đông Hớn, Chung Vô Diệm, Tam Quốc Chí, Ngũ Hổ Bình Tây, Nhạc Phi, Mạnh Lệ Quân...; còn Trần Phong Sắc dịch Truyện Nhạc Phi (xuất bản tại Sài Gòn, 1905), đồng dịch với Phụng Hoàng San, sau một mình dịch thêm 18 truyện Tàu (hơn 5000 trang) như: Tam Hạ Nam Đường Diễn Nghĩa, Phong Thần Diễn Nghĩa (1906), Tiết Đinh San Chinh Tây...; và Nguyễn An Khương dịch Phấn Trang Lầu Diễn Nghĩa, Thủy Hử Diễn Nghĩa, Vạn Huê Lầu Diễn Nghĩa, v.v... Ngoài ra còn có Nguyễn Liên Phong và Nguyễn An Cư dịch Tam Quốc Diễn Nghĩa do nhà Tín Đức Thư Xã tại Sài Gòn in từ 1927-1928 gồm 31 cuốn[7]. Có thể nói có chữ quốc ngữ mới có phong trào dịch sách Tàu, truyện Tàu để phổ biến rộng rãi trong đại chúng. Từ đó phong trào mê truyện Tàu bùng phát khắp Nam Kỳ: người người “mê” truyện Tàu, nhà nhà “mê” truyện Tàu, “mê” nghe “nói truyện” Tàu. Những cách ngôn Khổng-Mạnh, những tấm gương trung hiếu tiết nghĩa, những điều thường thức về nhân – nghĩa - lễ - trí -tín, về tam cang ngũ thường được người bình dân tình cờ tiếp thu từ sách, truyện Tàu, đợi có dịp đem ra thi thố. Cũng có khi qua những cuộc “đấu trí” của các bậc văn nho, thầy đồ trong các dịp giỗ chạp, ma chay, cưới hỏi hay hội hè đình đám mà người dân quê “nghe lóm” được rồi đem ra áp dụng trong ca dao, hò hát. Trong Luận án về Ca Dao Miền Nam, chúng tôi đã nhận định: “Ca dao miền Nam thường dùng những tiếng Hán-Việt hay những câu chữ Hán để làm nhập đề, để gợi hứng mà gieo vần hay để biện minh cho một tư tưởng, một tình cảm. Những bài hát hò như trên gọi là hát chữ (...) tức là những bài dùng cách ngôn Khổng-Mạnh lấy trong Minh Tâm Bửu Giám hay Minh Đạo Gia Huấn để gợi ý đưa vào đề” (sách đã dẫn, tr.176). Hát huê tình đối đáp – một bộ phận của ca dao miền Nam, cũng nằm trong mô-típ (motype) nói trên. Tuy nhiên với cố tật “xấu hay làm tốt”, “dốt hay nói chữ” của người bình dân Nam Kỳ, nên khi “hấp thụ” sách, truyện Tàu là họ đem ra ứng dụng, “thi thố’ ngay, nhiều khi vô thưởng vô phạt. Một nhà văn “chuyên trị” Miệt Vườn đã nhận định: “Thật bực mình khi nghe những câu hò dẫn chứng nhiều điển tích sai lạc, vô nghĩa hoặc nhiều cách ngôn của Khổng Tử, Tư Mã Ôn Công, với danh từ lẫn lộn, ép vận, sai văn phạm cổ văn’’[8].
Từ những nhận định kể trên, chúng tôi có thể nói câu hát huê tình đối đáp gồm một số đặc điểm về Nghệ thuật như: hát chữ, hát tích và hát đố/hát đối đáp. “Khi cuộc hát đã đến lúc hào hứng, hễ bên trai “buộc vào”, thì bên gái “mở ra”, bên trai “bẻ vô” thì bên gái “xô ra”, bên nầy hát chữ, hát tích thì bên kia tìm cách đối lại; bên nầy dùng những câu hát đố hóc búa, thì bên kia tìm câu hát đáp lại một cách tài tình” (Nguyễn Kiến Thiết, sách đã dẫn tr.107).
- Hát chữ: dùng thành ngữ nước ta hoặc cách ngôn cûa Khổng-Mạnh (thường lấy trong sách Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bửu Giám hoặc Minh Đạo Gia Huấn) để gợi hứng gieo vần. Chẳng hạn như:
- (câu 157): Chữ* tích ác có ngày phùng ác**
Hễ* mưu thâm ắt họa diệt thâm*
Vì anh không dạ tu tâm
Anh theo người hoang đãng, anh phải cầm đề lao.
*Sách CHHT in sai: Chử; Hể; thăm, đảng.
**Dẫn ý sách Minh Đạo Gia Huấn, tr.53: Tích thiện phùng thiện; Tích ác phùng ác. - (câu 261): Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu
Thoại bất đầu cơ bán cú đa*
Miễn** cho anh nói thiệt thà
Anh ôi, Dầu cho Hồ Việt một nhà lạ chi.
*Trích Minh Tâm Bửu Giám (tr.271): Rượu gặp bạn biết mình, ngàn chén cũng còn ít; Lời nói chẳng gài máy lập mưu, dầu có nửa câu cũng đã nhiều.
**Nguyên bản CHHT in sai: Miểng.
- (câu 157): Chữ* tích ác có ngày phùng ác**
- Hát tích: dùng điển tích của sách vở Trung Hoa hoặc các truyện thơ Việt Nam vừa để gợi hứng gieo vần hay nêu câu hỏi. Những bộ truyện Tàu như: Tam Quốc, Tây Du, Phong Thần, Thủy Hử, Tiền Đường, Hậu Tống, Tây Hớn, Nhạc Phi, v.v... được lồng vào trong các câu hò điệu hát cùng với phong trào dịch truyện Tàu sang quốc ngữ nở rộ ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Khi khảo sát về điển tích trong ca dao (thiên về ca dao miền Bắc), GS Thanh Lãng đã viết: “Văn chương bình dân rất kỵ những điển tích (...) Tuy nhiên đôi khi ta cũng thấy nhà văn bình dân dùng điển”[9]. Trong những chuyến đi “điền dã” sưu tầm, nghiên cứu Ca dao miền Nam, chúng tôi có thể khẳng định: Hát huê tình, một bộ phận của Ca dao miền Nam rất “sính” dùng điển tích. Phạm Văn Đang, một tác giả gốc miền Bắc cũng đã nhìn nhận: “Có điều đáng chú ý là ca dao miền Nam lại sính dùng thành ngữ điển tích hơn cả ca dao miền Bắc” [10]. Một vài thí dụ:
- Điển tích lấy từ Truyện Tàu:
- (câu 283): Chẳng thà em chịu đói chịu rách
Học theo cách bà Mạnh, bà Khương
Chẳng thèm như chị Võ Hậu đời Đường
Anh ôi, Làm cho bại hoại, cang thường hư danh. - (câu 300): Trương Lương, Anh Bố, Hàn Tín*, Tiêu Hà
Bốn ông giúp Hớn nên nhà
Em ôi, Văn hay võ** giỏi, em đà hiểu chưa?
* và **: Sách CHHT in sai: Hàng và vỏ.
- (câu 283): Chẳng thà em chịu đói chịu rách
- Truyện Kiều:
- (câu 285): đã dẫn trên.
- (câu 286): Cái lòng của qua chắc thật
Không phäi bậc* phong lưu
Dốc cho tròn chữ hảo** cừu
Tỷ như chàng Kim Trọng, không phải đồ Sở Khanh
* và **: Sách CHHT in sai: bật, chử, hạp.
- Điển tích lấy từ Truyện Tàu:
- Truyện Lục Vân Tiên:
- (câu 287): Quân vi thần cang
Phụ vi tử cang
Phu vi thê cang
Cố viết Tam cang
Bớ anh ôi, Lòng em giữ* trọn như nàng Nguyệt Nga.
*Sách CHHT in sai: giử (dấu hỏi).
- (câu 288): Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín
Thị vị ngũ thường
Em ôi, Đây anh cũng dốc, sánh bường Vân Tiên.
- (câu 287): Quân vi thần cang
- (câu 290): Chàng Lâm Sanh* hiếu hạnh
Dẫu hiu quạnh chi sờn
Bớ anh ôi, Trước sao, sau vậy như đờn lên dây.
*Sách CHHT in: Xuân-Sanh.
Ngoài ra Câu hát huê tình đã nhắc đến địa danh hoặc tên các triều đại trong lịch sử Trung Hoa để nói về tình yêu đôi lứa cũng như sự xa cách, chia lìa trong tình yêu, như: Hồ, Hớn (c.108), Tề, Sở, Đằng (câu 325), Châu Trần (c.331), Tấn, Tần (c.317), Trụ, Châu (c.170), hoặc ở dạng đối sánh như: Tần - Tấn (câu 316), Hớn - Hồ (c.108), Hồ-Việt (c.261), hay kết hợp với các địa danh có tính ước lệ khác như: duyên Tần Tấn, Châu Trần (câu 317), kẻ Tấn người Tần (câu 316), phản Trụ đầu Châu...
Tên nhân vật và các sự kiện lớn trong lịch sử Trung Hoa hay các thành ngữ có tính ước lệ cũng có mặt rất nhiều trong Câu hát huê tình: Nguyệt lão (c.80), Tơ Nguyệt (c.222), ông Tơ bà Nguyệt (c.355), dây tơ đỏ (c.359), Ngô Khởi (c.295), Tống Hoằng (c.296), Thái Ung (c.277), Mạnh Quang (c.276), Tể Ngã, Phàn Trì (c.282), Võ Hậu, bà Mạnh bà Khương (c.283), Thầy Tăng, thầy Lộ, Vương Khải-Thạch Sùng (c.284), Tử Cầm, Tử Cống ... (c.299), Trương Lương, Anh Bố... (c.300), loan phụng (cc.115-349), tào khang (cc.121-296), tào khương (c.125), Tam cang ngũ thường (cc.287-288), xướng tùy (c.251), đạo phu thê (c.75), thung huyên (c.117), xuân huyên (c.273), đồng thinh (thanh)-đồng khí (c.229)...
Các cuộc “hôn nhân dị chủng” do quá trình giao lưu Hoa-Việt đã phản ảnh phần nào khuôn mặt xã hội Nam Kỳ thời bấy giờ. Thí dụ:
- (c. 168): Căn nợ đâu xe thấu tới bên Tàu
Bớ mình ôi, Hay là mình thấy Chệt giàu mình mê. - (c.173): Thân em lấy Khách không suy
Chàng rể kêu cha vợ tao mi anh thấy thường.
Thứ đến, các cuộc “hôn nhân dị chủng” giữa “người Tây” và “An Nam” (c.234) trong giao lưu văn hóa Pháp-Việt:
- (c.41): Bạc-lê vẽ, sửa (?) em giận đứa măn-tơ
Làm sao mà nghi ngại bá vơ
Châu Thành em dạo cảnh, nó nghi ngờ em bán duyên.
Bạc-lê: Parler (nói); vẽ, sửa (có thể hiểu): mentir (nói dối); măn-tơ: menteur (người nói dối). Châu Thành: sách CHHT in Châu-thành). - (c.98): Ô-rờ-hoa đây giã bạn ra về
Bớ ai ôi, Căn duơn chưa bén mựa hề phát-sê.
Ô-rờ-hoa: Au revoir (chào tạm biệt); phát-sê: fâcher (buồn giận). - (c.13): Nhìn anh nước mắt rưng rưng
Bớ anh ôi, Xúp-lê xe chạy, em ngó chừng theo xe.
Và A-lơ-măn: Allemand (người Đức): - (c.188): Trách A-lơ-măn nó lăng xăng* làm loạn
Thiếp đưa chàng lai láng dòng* châu.
* Sách CHHT in: lăn xăn, giòng (tr.10).
Ngoài ra còn có xúp-lê: souffler (thổi):
Câu hát huê tình còn thể hiện “dấu ấn” của văn hóa vật chất của Pháp với những tiến bộ của văn minh công nghiệp như xe lửa/ga (cc.10-218), tàu (c.144), tàu lặn/xe hơi (c.33), Nhà hát bóng/Sở chụp hình (c.9), hoặc các vật dụng cần thiết trong sinh hoạt hằng ngày như đồng bạc (c.348), đồng bạc đầu hình (c.327), tiền bạc giấy tờ (c.328), vài cặp hột/ít lượng vàng/nhiễu lụa (c.246), chuỗi đeo tay (c.356) cùng những sinh hoạt giải trí và tệ nạn xã hội buổi giao thời như: thuốc phiện (cc.162-164), bài cào/á phiện (c.311), ghiền (c.164), đèn hồng, liều nhựa (c.160), ngáp dài/mua nhựa (c.162), sa mê tửu sắc (c.313), mảng mê cờ bạc (c.103), bài cạc-tê/tứ sắc (c.312), tào kê (c.194), lầu xanh (cc.52-63), bán hoa cho Chà (c.177), bán lý buôn đào (c.199)...
Sau cùng, nét đặc thù về ngôn ngữ trong Câu hát huê tình đã phản ảnh phần nào quá trình ra đời và phổ biến chữ quốc ngữ thời kỳ đầu ở Nam Kỳ như: chánh tả tiếng Việt (nguyên bản CHHT có vô số lỗi chánh tả và rất nhiều dẫn chứng cách ngôn Khổng-Mạnh sai); một số từ Việt cổ: mựa, mảng (cc.103-202), khá nhiều chữ kiêng húy, nhiều từ địa phương đọc trại và phương ngữ: bường (c.288), kết ngãi (c.25), ngỡi xưa (c.46), trước mai (c.11), căn duơn (c.57), vô nghì (c.24), phú quới (c.78), quờn quới (c.121)...
- Hát đố/Hát đối đáp:
Hát đối đáp là một loại hát huê tình giũa trai và gái “những khi có dịp gặp nhau”. Nam Kỳ là vùng đất mới, vùng “đất phước” với đồng ruộng bao la, cây lành trái ngọt, sông nước hữu tình đã nổi tiếng là miền trù phú bậc nhứt nước Nam. Những dịp gặp gỡ của chàng trai-cô gái khi diễn ra trên đồng ruộng, lúc trên sông nước. Nhưng nhiều nhứt là trên những dòng sông hiền hòa thơ mộng giữa “trai thương hồ” và “gái bán vàm” để diễn ra cuộc hát đố/đối đáp lý thú. Đại thể, mỗi cuộc hát đối đáp thường chia làm ba giai đoạn : Hát chào mời (bắt đầu chào hỏi, mời mọc); Hát đối đáp (đáp câu đố, nêu câu đố mới, khen tặng); Hát tiễn (từ giã, xe kết). Khi cuộc hát đã đến lúc hào hứng, hễ bên trai “buộc vào” thì bên gái “mở ra”, bên trai “bẻ vô” thì bên gái “xô ra”, bên nầy hát chữ, hát tích thì bên kia tìm cách đối lại; bên nầy dùng những câu đố hóc búa, lắt léo thì bên kia kiếm câu hát đáp lại một cách cân xứng[11]. Xin tạm dẫn một vài thí dụ.
- Gái (hát đố): dùng các thuật ngữ nhiều/ít, non/già.
- (câu 303): Bánh nhiều quá sao kêu bánh ít
Chuối non nhớt cũng gọi chuối già
Trượng phu đối đặng mới là đáng khen.
- Trai (hát đáp): dùng các thuật ngữ chua/ngọt, cao/lùn.
- (c.304): Canh chua lét sao kêu canh ngọt
Cây cao nghệu cũng nói cau lùn
Đối chơi với bậu anh hùng há thua.
- Gái: sử dụng nói lái hát đố:
- (c.301): Con cá đối để trên cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mục đuôi kèo
Bớ anh ôi, Anh mà đối đặng, dẫu* nghèo cũng ưng.
*Sách CHHT in sai: dẩu.
- Trai dùng nói lái hát đáp lại:
- (c.302): Con mỏ kiến đậu trong miếng cỏ
Chó vàng lông đáp dựa vồng lang
Bớ em ôi, Đây anh đối đặng e nàng chẳng ưng...
Cuộc hát đối đáp giữa trai thương hồ và gái bán vàm cứ thế mà tiếp diễn. Nhờ sự ứng đối tài tình, họ bắt đầu để ý, cảm mến nhau và tình yêu bắt đầu chớm nở giữa hai người. Cũng có khi vì bên trai, hay bên gái bị “buộc vào” mà không tìm được cách “xô ra”, nên cuộc hát đối đáp mất đi phần hào hứng. Dĩ nhiên sự gặp gỡ giữa đôi nam nữ sẽ không đi tới đâu. Và lúc bấy giờ cuộc hát đối đáp chỉ để “giải sầu”, “cầu vui”: “Hát mấy trăm câu giải sầu chư vị; Việc hát hò có ý cầu vui” (c.227).
*Kết: Tập sách mỏng chỉ vỏn vẹn 18 trang với 361 câu thơ lục bát biến thể, Câu Hát Huê Tình – một bộ phận của ca dao miền Nam – đã phản ảnh trung thực bức tranh xã hội Nam Kỳ buổi giao thời Pháp-Việt. Mặc dầu người sưu tầm chỉ với mục đích khiêm tốn là “để cống hiến cho nam nữ thanh niên lao động cơn hành sự ngâm nga đặng quên cả vất vả và mệt nhọc”; nhưng độc giả có thể tìm thấy Nội dung “văn dĩ tải đạo” bàng bạc trong tác phẩm. Đó là đạo quân thần (quân xử thần tử), lòng ái quốc, đạo hiếu (ơn cha nghĩa mẹ, xuân huyên, thung đường), đạo phu thê, tình nghĩa vợ chồng (chữ xướng-tùy, lòng chung thủy, dạ sắt son), trọng nghĩa khinh tài (kiến nguy vô dõng, tiền tài như phấn thổ/nhơn nghĩa tợ thiên kim), làm lành lánh dữ (tích thiện phùng thiện/tích ác phùng ác). Đó là tất cả cái “điệu nghệ” (đạo nghĩa) của người Lục tỉnh. Thỉnh thoảng phê phán “thói hư tật xấu” (cờ bạc, tửu sắc, á phiện, lầu xanh), thói mê tín dị đoan (tam hạp, tứ hành xung) và “hôn nhân dị chủng” (Tây-Tàu-Khách-Thanh-Chệt-Chà //An Nam, Việt). Nhưng phê phán là để xây dựng: vạch ra cái xấu, cái dở để gián tiếp đề cao cái tốt, cái hay nhằm giáo dục khuyên răn người đời. Về Nghệ thuật, hát huê tình đối đáp thiên về “diễn xướng” cần phải “câu giờ” để “bẻ lại” câu hát lắt léo, hóc búa, phải sử dụng tiếng đệm, tiếng láy cũng như vận dụng kiến thức và khả năng sẵn có của mình để thi tài cao thấp. Vì vậy câu hát huê tình sử dụng gần như nguyên xi lời ăn tiếng nói của dân gian Lục tỉnh: lời lẽ bình dị, mộc mạc, không trau chuốt nên dễ đi sâu vào lòng người. Chúng ta sẽ không thấy những câu hát tròn trịa mềm mại thể sáu tám trong Câu hát huê tình, nói riêng và trong Ca dao miền Nam Lục Tỉnh, nói chung. Trong một bài nghiên cứu về Ca dao miền Nam, chúng tôi đã nhận định: Hò hát đi trước ca dao; và ca dao lục bát thành hình sau hò hát. Người sưu tầm/phổ biến (Đinh Thái Sơn) mặc dầu phải “tam sao thất bổn” do sự giao lưu văn hóa, do “trình độ văn hóa”; nhưng đã đạt được thành tựu đáng kể trong việc bảo tồn cái di sản lý thú của ông cha. Chúng tôi tin rằng Câu Hát Huê Tình là một văn bản quý hiếm cho các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, các nhà ngôn ngữ học, xã hội học và văn học sử. Câu Hát Huê Tình chính là bản sao thâu gọn của ca dao Nam Kỳ Lục Tỉnh vậy.
─────────────
Chú Thích:
[1] Thanh Lãng: Văn Chương Bình Dân. In lần II. Sài Gòn, Văn Hợi xb. 1957, tr.90.
[2] Toan Ánh: Cầm Ca Việt Nam. SG, Lá Bối xb. 1969, tr.92.
[3] Thuần Phong: Ca Dao Giảng Luận. Kỳ II, SG, Á Châu xb.1970.
[4] Xem Lê Văn Hảo: Một số cổ tục của người Việt Nam qua các hội mùa. Đại Học số 37 (tháng 2/1964); 39 (tháng 6/1964); 40 (tháng 8/1964).
[5] Sơn Nam: Văn Minh Miệt Vườn. Sài Gòn, An Tiêm xb. 1970, tr.61-62.
[6] Thanh Lãng: Thay Lời Bạt. Văn Học Miền Nam của Đông Hồ. Sài Gòn, Quình Lâm xb, 1970.
[7] Xin xem Nguyễn Vy Khanh: Văn Học Quốc Ngữ Thời Đầu & Miền Nam Lục Tỉnh. Hoa Kỳ, Nhân Ảnh xb. 2021, tr.110-111; và Bằng Giang: Văn Học Quốc Ngữ Ở Nam Kỳ 1865-1930. Nxb Trẻ, 1992, tr.237.
[8] Sơn Nam: Nói Về Miền Nam. SG, Lá Bối xb. 1967, tr.59.
[9] Thanh Lãng: Văn Chương Bình Dân. In lần II. Sài Gòn, Văn Hợi xb. 1957, tr.118.
[10] Phạm Văn Đang: Nghệ Thuật Xây Dựng Từ Hoa Trong Ca Dao Việt Nam. Luận án Cao học Văn chương ĐH Văn Khoa Sài Gòn, 1965, tr.149-150.
[11] Xin xem Nguyễn Kiến Thiết (sách đã dẫn, tr.107-111).