Giới thiệu lớp Hương Thân gạt vợ trong tuồng Ghen

Nguyễn Văn Sâm

Khi trao đổi về tài liệu Nôm với TS Nguyễn Thanh Phong, tôi có nhận được vài ba tuồng Nôm Nam Bộ. Ghen là tuồng rất đặc biệt vì sự kiện đã mới gần đây, chừng 1920, mà nơi xảy ra lại ở một tỉnh trong Nam, chữ dùng rặc ròng Nam Kỳ Lục Tỉnh, cách viết tuồng lại đơn giản, không cầu kỳ văn chương đối ngẫu, đọc dễ hiểu - dầu chữ Nôm hơi khó - Rảnh rỗi bèn phiên âm, chú giải lưu thế, mà Lớp Hương Thân gạt vợ là lớp đầu trong tuồng, từ đó tạo ra những lớp kế tiếp như Gặp Vợ Nhỏ, Bàn Mưu Đánh Ghen, Hai Bà Ấu Đả… Xin có lời cám ơn TS Nguyễn Thanh Phong về sự trao đổi nhờ đó tôi được tiếp xúc với một tuồng thuần túy Nam Bộ về nội dung và rất mới về mặt hình thức của tuồng… (NVS)

Lớp Hương Thân gạt vợ đi thăm phòng nhì

Như tôi nay:
Nền phú hậu cha con đều phước đức,
Việc oai quyền làng xóm thảy vừa lòng.
Nhưng rứa mà chửa được yên:
Hiềm vì một nỗi gái Hà Đông,
Cực bấy tấm lòng muông sư tử.
Con vợ lớn của tôi nó ghen tương lắm.
Tôi cũng muốn toan để phức
[1] nó đi cho rảnh.
Cũng muốn ra tay trừ vợ dữ,
Nhưng rứa mà: (t7)
Ngặt vì đau dạ nỗi con thơ,
Bởi rứa cho nên tôi phải xa con vợ mọn[2] của tôi đó.
Ai đi:
Phận tiểu tinh[3] ôm gối đợi chờ.
Sông Vị Thủy xui dòng khô cạn[4] a!
Thiệt là:
Tư trắc thất bất an trù trướng[5],
Còn:
Hoài tiểu nương mạc giải tâm tình[6]!
Giờ tôi biết lập mưu kế chi đặng mà lên thăm con vợ bé bây giờ cà!
Hà hà! Phải có cơ hội nầy đây. May cha chả là may! Thầy Cai Tổng bị tội tại Châu Đốc đây mà. Vậy thì ta mới có dịp đi được cho!
Âu là:
Ta kiếm chước nói quanh,
Dối cùng nó đặng ra thăm nàng cho được việc thôi mà!

Hương Thân Hoàng Khắc Vưu:

Bớ má bầy trẻ. Ra cho ta bảo đây!

Chánh Thất Trần Ngọc Hảo:

Dạ!
Chẳng hay ông kêu tôi có chuyện chi hả ông?

Hương Thân:

Mình ơi!
Số là vầy
[7]:
Ông Cai Tổng mắc vòng luy tiết[8].
Mình Hương Thân, lợi[9] chẳng dạ cần quyền[10] (t4) hay sao?
Giờ thì má mầy phải mau mau

Hãy:
Sắm sanh[11] cơm, hối trẻ dọn thuyền,
Kêu phu trạo đặng cho ta cất mái[12].
Đi!
Việc đừng giải đãi[13].
Chuyện chớ trì diên[14] mà bị trách nhiệm chớ chẳng phải chơi a!

Chánh Thất:

Úy chu cha!
Mới vắn mặt[15] Điêu Thiền,
Đã đau lòng Lữ Bố đó mà thôi[16]!
Hèn chi mấy bữa rày ông ăn không được, ông ngủ không được!
Mặt chào bạo[17] như trâu cày mả họ[18], chớ (chẳng) phải ông lên đặng bái con vợ bé[19] của ông rồi, còn nói mà làm chi!
Sức rầm rì như ếch nọ gặp mưa rào[20].
Tôi chớ phải ai đâu mà phòng dối nào!
Rất đỗi:
Ruồi bay ngang đực cái còn phải hỏi tao[21].
Trong thế ông nay là:
Ngựa trở chứng khớp giàm[22] sao mong qua thiếp đó thê!
Ớ ông Hương[23]:
Tôi ở với ông, tôi đẻ cho ông những là con trai có, con gái có.
Có phải là:
Trai gái (t9) có mặt mày xem cũng đẹp.
Ai đi!
Vợ chồng không lòng dạ đặng xót thương.
Á thôi thôi!
Mùi ngọt chua chanh khế thiếp đã tường[24],’
Máu tráo chác bưởi bồng chàng chớ dối[25] nào!

Hương Thân:

Thầy Cai tổng mắc tội thiệt đó mà!
Cả thảy làng đồng đi thăm hỏi.
Còn:
Một mình ta há dễ lấp ngơ[26] hay mần răng?
Phải mà làm cái chức chi chi chẳng nói làm chi. Chớ tao làm chức Hương Thân đương niên[27] chớ phải chơi sao!
Chức Hương Thân nỡ để bơ thờ[28],
Việc tổng xã phải toan cho cần kíp.
Nếu dần dà thăm chẳng kịp,
Thì tai họa nọ liền mang.
Thương hại ẻ:
Cai Tổng đà mắc chốn rạc ràng[29],
Đố phụ [30]lại buông lời (t10) gàn cản[31] nè!

Chánh thất:

Á thôi thôi!
Tôi không ngăn chặn,
Ông chớ làm khôn với tôi!
Tôi cho ông đi, mà từ tư dĩ tiền thì nghi hưu cho ông hết thảy. Còn từ tư dĩ hậu mà ông còn ghé Đồng Tân đó thì ông mới tính làm sao nè nè.
Rày tới mà ông còn quen thói mê l.[32], tôi nói thiệt:
Sớm muộn tôi cũng nguyền toan lắc dái, lắc dái cho ông coi[33].

________________

CHÚ THÍCH:

[1] Để phức: Bỏ (con vợ) cho rồi. Từ phức đi theo một động từ tạo nên tánh cách quyết liệt, liền ngay cho động từ. Nói phức, giết phức, bỏ phức, chết chức, ăn phức, đi phức…

[2] BN 𡮆, không phải bé𡭬 hay 閉.

[3] Tiểu tinh: Vợ nhỏ. Kiều có chữ nầy.

[4] Sông Vị thủy xui dòng khô cạn: Câu nầy nên hiểu nghĩa bóng, chờ đợi khiến nàng khô héo. Ngày nay nói bóng gió là Điện nước không còn được đầy đủ nữa.

[5] Tư trắc thất bất an trù trướng: Nghĩ đến vợ nhỏ thì nằm ngủ không yên.

[6] Hoài tiểu nương mạc giải tâm tình: Nhớ nàng bé không thể nào nói ra cho hết.

[7] Cách nói nầy rất đặc biệt Nam kỳ, như chữ để phức… ở trên.

[8] Luy tiết: Tù rạc. Nhiều sách Nôm viết ly tiết. HTC: ly tiết: Trăng trói, rạc ràng.

[9] Lợi 利 lại, giọng Nam… chữ nầy rất quan trọng vì đã lưu giữ được tiếng nói Nam Kỳ, bằng chữ Nôm.

[10] Cần quyền: Chăm sóc cho tình thế.

[11] Bản Nôm: tinh

[12] Phu trạo, Cách dùng Nôm hóa của chữ Hán trạo phu: Người chèo thuyền. Cất mái 拮𠃅: Giở, mái chéo: Chèo ghe đi. Cả câu: Kêu thằng chèo ghe để ta lên đường. Xưa sự lưu thông thường bằng ghe. Nhà giàu hầu hết có ghe và phu trạo, hễ đi đâu thì có sẵn, như nay người giàu thường có xe hơi với tài xế riêng.

[13] Giải đãi 解怠: Chậm chạp, cà rề cà rề. BN rất chính xác khi chữ giải được thêm bộ tâm.

[14] Trì diên 遲延: chậm trễ.

[15] Vắng mặt 問𩈘, BN viết vắn mặt. Giọng Nam.

[16] Khi buông ra câu nầy người vợ đã nói trúng tim đen của ông chồng nhớ vợ bé. Những chữ đó mà thôi lại xác quyết lời mình phóng ra làm cho ông chồng không thể nào trớ được.

[17] Mặt chào bạo 𩈘嘲暴: Mặt chầu bậu, mặt bùng thụng bùng thịu khi giận. Còn nói mặt triều biệu, tức quạu đeo, nhăn nhó không vừa ý.

[18] Trâu cày mả họ: Gần thanh minh, một người trong dòng họ lấy trâu cho cày đất khu mả chung của dòng họ. Đất lạ, trâu thường không thích. Thành ngữ nầy quá hay ở đây.

[19] Bái con vợ bé 唄𡥵𡞕𡭬: Lạy nó. Người vợ ghen nên xài chữ bái chỗ nầy hay quá. Hình ảnh vừa trừu tượng vừa cụ thể vừa mắng nhiếc xa gần.

[20] Cả câu: Chuyện ồn ào như ếch kêu khi gặp mưa. Chuyện ai cũng biết hết.

[21] Câu nói phách cho rằng mình đã biết sự thiệt.

[22] Khớp giàm: Bịt giàm, bó miệng lại, không cho nó hí.

[23] Ớ ông hương 唖翁鄕: Hỡi ông Hương Thân kia ơi! Bà vợ kêu chức tước của chồng ra như một cách diễu cợt.

[24] Ngọt chua chanh khế: Chỉ lúc sống sung sướng cũng như lúc cực khổ. Cả câu: Tôi đã từng chịu cực khổ (trong cuộc sống với ông.)

[25] Tráo chác bưởi bồng 到啅𣘓蓬: Chỉ sự lừa đảo, thay đổi trong tình chồng vợ. Cả câu: Xin ông đừng lừa lọc, đừng dối trá để che đậy chuyện thèm muốn con nầy con kia.

[26] Há dễ lấp ngơ: Nhắm măt cho qua chuyện, coi như không biết để khỏi làm điều gì đó đáng lý phải làm.

[27] Hương Thân đương niên: Đương giữ chức Hương Thân. Không phải Hương Thân đã hết hạn. Thường các chức trong Ban Hội Tề làng là bốn năm.

[28] Để bơ thờ 底巴蜍: Để không coi sóc

[29] Chốn rạc ràng 凖絡𦀾: Nơi tù ngục, như như chữ lụy tiết ở trên.

[30] Đố phụ 妬婦: Người vợ hay ganh ghét hay ghen tuông.

[31] Gàn cản 揚艮: Cản trở, ngăn chận. Trong cờ bạc có tiếng gàn tiền là cản trở không cho ăn vì nhà cái không có tiền (sạt lụi) hay không đủ tiền mà dám giỗ lớn tụ con.

[32] Quen thói mê l.: Tiếng vợ chửi chồng mê mải vợ bé. BN viết nguyên chữ, không biết không thấy tục, chữ QN ai đọc cũng biết nên phải tránh, viết đơn thôi. Người xưa cũng quá cha kẻ bây giờ!

[33] Người xưa cũng ghê gớm quá. Nói năng nghe đổ mồ hôi hột: L. dái. Sẵn cũng nói thêm dái có hai nghĩa: 1. như dái mít, trứng (củ) dái, cà dái dê, dái khoai. 2. Và cũng có nghĩa như người đời thường hiểu: là của quí của đàn ông…