Đọc lại bài “Văn Tế Nghĩa Sĩ” (Cần Giuộc) của Nguyễn Đình Chiểu, một bài Văn Tế cảm động nhứt trong lịch sử văn học Việt Nam

Nguyễn Văn Sâm

Bài Văn Tế nầy nổi tiếng ngay từ khi mới ra đời, được phổ biến hầu hết trong các sách văn học sử sau đó – ở dạng Quốc ngữ (QN) với nhiều dị bản, dĩ nhiên! Cho tới nay chưa thấy sách vở nào đưa ra bản Nôm (BN) để học giới từ đó làm căn bản cho một bản quốc ngữ có giá trị gọi là tương đối chính xác. Mấy mươi năm trước, do một loạt cơ duyên với chữ Nôm, sách Nôm tới tôi (NVS) nhiều nên được thủ đắc một số BN lạ, quý, trong đó có bài nầy. Nay xin đưa ra trình làng cùng bản phiên âm kèm theo vài nhận xét nho nhỏ. Có thể có vài chữ được đọc chưa chính xác, chờ mong sự góp ý của những ai yêu thích chữ Nôm và có lòng với văn chương yêu nước.

Tác giả mở đầu bằng tám chữ đơn giản nhưng nhiều ý: Giặc Tây đã tới, súng Lang Sa xâm lăng đã liên hồi rền vang khắp đất Việt ta (Súng giặc đất rền), trong lúc đó thì lòng dân cùng nhau chẳng sợ chết nhứt quyết đứng lên chống giặc cướp nước đến nỗi Trời cũng hiểu điều đó dầu ở trên cao thẳm ngàn trùng (lòng dân Trời tỏ).

Giặc Tây đã tới Cần Giờ/ Xin đừng thương nhớ đợi chờ uổng công. Đừng thương nhớ đợi chờ vì anh/em đi đánh giặc. Đó là lời của dân chúng thể hiện trong ca dao đương thời.

Từ đó mới có sự kiện nghĩa sĩ Cần Giuộc nổi lên đánh Tây, thắng chút ít, gọi là có chút tiếng vang, nhưng bị chết thảm nhiều. Xúc cảm trước sự kiện nầy ông Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế nghĩa sĩ. Tôi chắc rằng bài văn chỉ đươc viết ra trên giấy, dân gian lưu truyền bằng cách học thuộc lòng hay chép sao chứ chưa bao giờ được khắc in hay đọc trong cuộc lễ tế nào vì sự khó khăn của thời thế.

Nhưng tại sao phải đánh Tây trong khi vũ khí họ quá mạnh, binh lực họ quá tân tiến mà quân mình thì...?

Tác giả lý luận rằng nếu cứ cui cút chăm lo ruộng nương của gia đình, sống mười năm cuộc đời thường cũng chưa chắc được tồn sanh, trong khi đó đi đánh giặc Tây nếu có chết đi thì cũng rạng danh với đất nước. Đó là trận giặc nghĩa, nghĩa với quê hương, với tiền nhơn, với đồng bào hiện tiền... Chữ giặc nghĩa tác giả nói ít nhưng nhiều ý, dễ kích thích dân chúng lên đường sau bài văn của mình. Chữ giặc nghĩa còn tạo nên được sự đối nghịch của hai phía: bên tà xâm lược, bên nghĩa giữ nước.... Từ ý nghĩa đó NDC dùng chữ nghĩa sĩ, anh hùng để chỉ binh sĩ đi đánh giặc Pháp.

Đoạn cuối bài ông nhắc tới bốn chữ thiên dân (dân Trời), vương thổ (đất nước đã có chủ) để làm mạnh mẻ hơn ý tưởng giặc nghĩa. Thiên tài của NDC là đây, ông đã sử dụng vài ý cơ bản để đem chánh nghĩa về cho người lên đường, từ đó họ sẽ không sợ chết, không viện dẫn lý do gì để đứng làm kẻ bàng quan, trốn tránh trách nhiệm.

Như đã nói, phần mở đầu và kết thúc của bài Văn Tế đã bao gồm toàn bộ ý của bản văn, thân bài chỉ là những khai thác cụ thể khiến cho bản văn có màu sắc hơn mà thôi. Tuy nhiên NDC đã đưa ra nhiều chi tiết có giá trị về người nghĩa sĩ: vốn là những nông dân gần như suốt đời lo chăm miếng đất của mình, chưa bao giờ được biết tới chuyện súng gươm, chưa bao giờ kinh qua huấn luyện quân sự, vậy mà trước sự tấn công của giặc họ đã lên đường không nài nguy hiểm, đi đánh giăc trong thiếu thốn trang bị và có thể thiếu cả người cầm đầu.

Bản Nôm được viết theo âm cách của người Nam, chữ chuyến 轉,專 được viết Nôm bằng chiến 𢧐, chữ dao 刀được viết bằng giao 交 , chữ (cui) cút 嗗 được viết bằng cúc 菊, chữ mắc 縸, 𦄿 (mớ) được viết với mắt 眜 như thường thấy ở những BN khác, chữ càng 強 (thêm hổ) được viết bằng chữ càn 乾. Chữ rền hài thanh bằng tình 情 thay vì trình 呈 như thường thấy, đó là do sự phát âm rền thành dền cũa người dân lục tỉnh. Chữ (dao) phay Nôm rất hay: Kim 釒+ phái 派, cũng vậy chữ đâm 鈂, đươc viết với bộ kim 釒... Những trường hợp Nôm chính xác, hay rất nhiều.

Bản văn còn giữ được cụm từ xưa – ngày nay nhiều người không hiểu nên sửa lại theo ý mình cho dễ hiểu – chẳng thà.... chẳng thà có nghĩa là: thà rằng.... còn hơn. Cho nên không lấy gì làm lạ khi có bản QN thay những chữ chẳng thà... chẳng thà bằng thà rằng... còn hơn...[1]

Trong khi phiên âm, tôi băn khoăn khi chọn cách đọc riết tới 𨀺細 thay vì lướt tới như người đi trước dầu hai chữ riếtlướt đều viết bằng một chữ Nôm[2].

Một số từ ngữ liên quan tới quân sự thời đó cũng là những tư liệu quí giá không thể dễ thấy ở các bản văn khác: Khiên, mác, cờ, bòng bong, ống khói tàu, bao tấu, bầu ngòi, dao tu, nón gõ, quân Cơ, quân Vệ, lưỡi dao phay, rơm con cúi, ngọn tầm vong, Ma Ní, Ma Tà, hỏa hổ.

Người chú ý tới sử giai đoạn Tây mới tới miền Nam sẽ thấy được nhiều điều cụ thể: Tàu Tây tới đánh phá sông Cần Giuộc cả năm trời mà người trách nhiệm bên ta ở đâu không thấy, chợ Trường Bình ở vùng nầy bị đốt, chùa Lão Ngộ bị đóng cửa rất lâu... đó là ở trong sâu, ngoài gần biển, vùng Bến Nghé họ đã tới từ ba năm trước rồi. Trong trận đột kích ở Cần Giuộc năm đó một quan hai Pháp bị giết...

Cuối bài ông NDC nói với hồn nghĩa sĩ rằng sống thờ vua, chết cũng thờ vua, nên âm trợ đoàn nghĩa sĩ còn lại. Thêm nữa, tác giả nhắc chuyện tập ấm cho con cái họ để linh hồn người chết được mãn nguyện...

Tóm lại bài văn tế nầy xuất hiện trong lúc chiến tranh, đã có nhiều phần tác động lên lực lượng kháng chiến thời bấy giờ. Trong khi bài Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong của Nguyễn Văn Thành xuất hiện khi chiến tranh đã kết thúc có tác dụng vỗ về người sống sót kinh qua cuộc chiến. Hai bài hai thời đại, hai tác dụng nhưng đều đáng gọi là kim cổ kỳ bút về thể loại văn tế.

Ghi chú:

  1. BN nầy có vài chữ khác so với những bản QN lưu hành trước đây có thể do những nhà nhà Nho cung cấp mà không đưa ra BN, chúng tôi theo nguyên tắc tin tưởng BN – dầu không tuyệt đối - nên coi sự khác biệt đó không đáng kể, và chọn chữ của BN. Tuy nhiên người thích khảo dị văn bản có thể làm sự so sánh để lý luận chọn chữ nào mình mình nghĩ hữu lý, chính xác.

  2. BN nầy không có hai liên có vẻ quan trọng mà thường các bản QN có, chúng tôi do đó đã đem vào bản phiên âm nầy như một bổ khuyết cần thiết.

  3. Trong BN có mấy chữ: Tự Đức trấp lục niên tam nguyệt (Tự Đức năm thứ 26, tháng Ba), chúng tôi coi như ngày chép bản văn của tiền nhơn nào đó, chớ không phải là ngày ông NDC sáng tác cho tới khi có tài liệu nào xác định rõ ràng.

  4. Những chi tiết quân sự trong bản văn rất đáng chú ý về mặt sử liệu đối với những ai yêu thích ngành nầy vốn không phải là chuyên môn của người phiên âm, NVS, nên xin nhường lại và sẽ không được chú thích chi tiết.

Nguyễn Văn Sâm
Victorville, CA, Nov. 29. 2021

__________________


(t1) Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Hỡi ơi!
Súng giặc đất rền; Lòng dân Trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng; chưa ắt còn, tên nổi như phao[3];
Một trận nghĩa đánh Tây; tuy rằng mất, tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; Riêng lo nghèo khó[4],

Chẳng quen cung ngựa, đua tới trường nhung[5];
Chỉn biết ruộng trâu, ở theo làng họ[6].

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, (t2) việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó[7].

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa[8];
Mùi tinh chiên vấy vá[9] đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ[10].

Bữa thấy bòng bong[11] che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó. (Theo bản QN thường thấy.)

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến nầy nguyện ra uy bộ hổ.[12]

Khá khen thay!

Chẳng phải thiệt quân Cơ quân Vệ[13], theo dòng ở lính diễn binh;

Chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ[14].

Mười tám ban võ nghệ, chưakịp tập rèn;
Mấy mươi trận binh thơ, không chờ bày bố[15].

Trên cật một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi,
Trong tay một ngọn tầm vông, nào đợi sắm dao tu, nón gõ[16].

Hỏa hổ đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo[17] kia; (t3)
Gươm đao dùng một lưỡi dao phay, cũng đâm đặng thằng quan hai nọ.

Chi nhọc quan Quản gióng trống kỳ trống thúc, đạp rào riết tới, coi giặc cũng như không;
Chi sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma tà, ma ní[18] hồn kinh;
Bọn ó trước, lũ hè sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng[19] pháo nổ.

Ôi!

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ.

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, xá đợi gươm hùm treo mộ. (không có trong BN)

Đoái sông Cần Giộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà làm binh đánh giặc cũng cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ bảo bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.[20]

Bởi nghĩ rằng:

Tấc đất ngọn rau ơn chúa, vuntrồng cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo của đời, mắc mớ chi ông cha nó.

Vì ai nỗi quan binh khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai nên đồn lũy tan tành, (t4) xiêu mưa ngã gió.

Sống làm chi theo quân Tả Đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc[21], thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính Mã Tà, chia rượu chát, phát bánh mì, thấy càng thêm hổ[22].

Chẳng thà thác mà đặng câu địch khái, theo về tổ phụ cũng vinh;
Chẳng thà còn mà mang tiếng hàngTây, ở với Man Di rất khổ.

Ôi, thôi thôi!

Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gởi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong nhà;
Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Ôi!

Một trận khói tan, Ngàn năm tiết tỏ.

Binh tướng nó hỡi đóng sông Bến Nghé, làm cho bốn phía mây đen[23];
Ông cha ta còn ở xứ Đồng Nai, ai cứu một phường con đỏ!

Thác đặng trả nước non rồi nợ, (t5) danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác đã ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mến[24].

Trước đánh giặc, sau cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp các cơ binh, đặng trả thù kia[25];
Sống nhờ vua, thác cũng nhờ vua, lời dụ rành rành một chữ ấm, đủ đền công đó[26].
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân[27];
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.

Hỡi ơi, thương thay!
Ai ơi thảm thay!

__________________

CHÚ THÍCH:

[1] Ca dao Bình Định có các chữ: Thà rằng... hơn là: Thà rằng cắt tóc đi tu. Hơn về Bình Định c.c. đi đời là giai đoạn mới của cụm từ Thà rằng... Chẳng thà...

[2] Đọc khác một vài chữ Nôm là chuyện bình thường. Trong tuồng Nôm Da vit thánh vương, bản đánh máy lưu hành trong thân hữu của BS Nguyễn Huy Hùng ở Houston, các chữ: 眉 涓 吶 悼 (忄卓), ông đọc mày quen nói sấc, tôi nghĩ là nên đọc mày quen nói sước.

[3] Vỡ ruộng: Cày ruộng thành luống. Génibrel có từ vỡ cày: sillon là luống cày trên ruộng. Mươi năm trước 75, một tác phẩm của Nga được yêu thích có cái tên là Vỡ Đất Hoang... Tên nổi như phao: Tên chỉ được biết trong vùng nhỏ rồi sẽ mất trong một thời gian ngắn.

[4] Cui cút: Chăm chỉ làm ăn trong đơn lẻ nghèo khó. Nhiều bản QN đọc côi cút, không đúng nghĩa. Cả câu: Lo cuộc sống của người bình thường.

[5] Trường nhung: nơi trận mạc, chiến địa. Cả câu: Chưa bao giờ biết chuyện đánh giặc.

[6] Chỉn biết: Chỉ biết, chỉ chăm chăm lo việc gì. Cả câu: Chỉ lo kiếm làm ăn kiếm sống.Sống gần gũi với bà con, cùng làng, cùng họ.

[7] Quân nghĩa sĩ vốn chỉ quen làm ăn sinh sống chưa bao giờ biết tới trận mạc.

[8] Tiếng phong hạc: lấy ở câu phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh, nghĩa gốc là nói sự hồi hộp lo lắng, nghe tiếng gió thổi hạc kêu, thấy cây cỏ cũng tưởng là giặc đuổi đánh. Ở đây, “tiếng phong hạc” có nghĩa là tin kẻ địch đến. (chú theo bản QN) Cả câu: Quân địch tới đã hơn 10 tháng, dân chúng trông tin người điều khiển chống giặc thì chẳng thấy đâu. Chờ mong hoài!

[9] Mùi tinh chiên: Tanh hôi, chỉ thực dân Pháp Vấy vá: 1. Công việc làm không hết lòng, tạm bợ cho có. 2. Làm do bẩn, nhớp nhúa. Nghĩa dùng ở đây.

[10] Ghét giặc quá chừng.

[11] Bòng bong: Giống cây dây leo có nhiều tay leo. Ở đây chỉ những lều và buồm vải có nhiều dây của quân Pháp. (Chú theo một bản QN)

[12] Tự mình tình nguyện ra đi đánh giặc xâm lăng. Đoạn kình: Giết cá lớn, Bộ hổ: Bắt sống cọp. Hai chữ đoạn kìnhbộ hổ chỉ việc đi đánh giặc rất nguy hiểm nhưng dân chúng dầu không được huấn luyện ở trường nhung vẫn hăng hái lên đường.

[13] Quân Cơ, quân Vệ: Các đơn vị quân đội của triều đình Việt Nam. Nói chung quân ở đây được huấn luyện và trang bị dầu rằng còn rất thô sơ so với quân Pháp.

[14] Quân chiêu mộ: Quân lính tình nguyện trong lúc cấp thời do chánh quyền mộ để ứng phó với hoàn cảnh.

[15] Bày bố: Đưa ra, trình bày. Cả câu: Chưa được huấn luyện quân sự chi cả.

[16] Trên cật: Trên lưng, trên lưng mang... Bao tấu, bầu ngòi, dao tu, nón gõ: Đồ trang bị cho binh sĩ Việt Nam thời đó. Bao tấu: Đồ đựng thuốc đạn, quân lính thường cột lưng. (HTC) Bầu ngòi: Chai nhỏ, bầu nhỏ dùng đụng thuốc súng hỏa mai. Dao tu: HTC, Dao quân lính phải cột theo lưng để mà đốn cây đốn củi. NVS, Thiệt ra dó là dao lớn bén để chém giặc khi xáp lá cà. Nón gõ: Nón lính, hình giống nón lá nhưng khổ nhỏ hơn, làm bằng những miếng gỗ ghép lại.

[17] Nhà dạy đạo: Nhà thờ. Những năm triều đình cấm đạo, có những căn nhà lén lút che giấu các cha cố đạo và vài tín đồ, nhưng không có tên là nhà dạy đạo. Trong khi đó thì nhà thờ đã mọc lên ở những vùng Pháp đã bình định xong tuy rằng không quy mô bằng.

[18] Ma tà, Ma ní: Tên những nước có lính đánh thuê của Pháp, được tuyển mộ sang đánh Việt Nam.

[19] Có chữ như 如hình như bị bôi bỏ chỗ nầy.

[20] Bảo 堡: thành nhỏ, đồn lũy. Cả câu: Tội phải hiệu lực vì không giữ đồn lũy nên bị đưa ra đánh những trận nguy hiểm.

[21] Vùa hương: Đồ để cắm nhang như chén, ly chứa gạo hay lư hương nhỏ. Quẳng vùa hương: Như nghĩa nhóm chữ xô bàn độc. Bàn độc: Bàn lớn thường xếp chưn lại cho rộng chỗ nhờ 4 chưn có thể xếp vô khi không dùng. Bàn độc thường dùng khi có cúng kiến cổ bàn. Génibrel cho bàn độc cũng là bàn hương án. Xô bàn độc: Bài trừ sự cúng kiến, giỗ quải. Chỉ theo đạo Thiên Chúa, là đạo mới du nhập vào VN không lâu. Khác với phong tục VN lâu nay... chủ trương không cúng quỷ quải ma.

[22] Đời sống nhục khi đi lính cho Tây: Sống chung với lính đánh mướn, đi lãnh phần ăn uống theo họ, rất đáng hổ thẹn! Nhứt là bánh mì, rượu chát dân Việt ngày đó chẳng quen.

[23] Chỉ tình cảm của dân chúng nhìn về hướng đó mà thôi, người u uất nên thấy cảnh buồn, thực tế bên ngoài không phải như vậy.

[24] Chúng: Mọi người. Đối với chữ ai (ai) ở dưới.Cả câu: chết trả đền nợ nước ai cũng khen!

[25] Hồn những nghĩa sĩ theo âm trợ người nối tiếp bước chưn của họ.

[26] Có chăng nhà vua ra lịnh tập ấm cho các con của những tử sĩ nầy? Chương trình thực hiện tới đâu và trong bao nhiêu lâu?

[27] Thiên dân: Dân Trời, một cách nói ngụ ý chỉ người dân nước ta là những người được Trời che chở, không thể bị xâm lăng được.