Phần III – Đất nước và con
người
ƠN TRỜI MƯA NẮNG PHẢI TH̀
Người ḿnh có danh từ ”Trời” rất phong phú,
đa dạng, dân giă mà cao siêu lắm.
Trước hết, Trời chỉ khoảng không bao
la mênh mông trên đầu, như các câu nói :
- Trời cao đất rộng
- Trời cao biển rộng mông mênh,
Ở sao cho trọn tấm t́nh phu thê
Trời cũng thường được dùng
để chỉ đấng tối cao, làm chủ vạn
vật, làm chủ vận mạng con người như :
-Trời Phật.
-Trời già.
- Trời sao Trời ở chẳng công,
Người ba bốn vợ, kẻ không
vợ nào.
-Trời ơi, sanh giặc làm chi
Cho chồng tôi phải ra đi chiến
trường.
Đặc biệt trong ngôn ngữ Việt Nam,
Trời lại chỉ về thời tiết, mưa,
nắng, hạn, hán, lụt lội . . .
-Trời mưa cho
ướt lá khoai,
Công anh làm rễ đă hai năm ṛng.
-Trời mưa bong bóng phập phồng,
Mẹ đi lấy chồng, con ở
với ai.
-Trời mưa ướt bụi,
ướt bờ,
Ướt cây, ướt lá ai ngờ
ướt em.
Trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư có bài “Cày cấy” dùng làm bài
học thuộc ḷng cho học tṛ lớp Dự Bị ,
trong đó tác giả nói đến “Ơn Trời”.
Ơn Trời mưa
nắng phải th́,
Nơi th́ bừa cạn, nơi th́ cày
sâu.
Công lênh chẳng quản lâu lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm
vàng.
Xin ai đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng
bấy nhiêu.
Chữ Trời trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư
vừa chỉ Đấng thần linh vừa chỉ
hiện tượng thời tiết rất quen thuộc
trong dân gian và đặc biệt trong sanh hoạt nhà nông
nước ta xưa nay.
Thuở xưa, người ḿnh tin tưởng
Trời là Đấng thần tối cao, tạo mưa
tạo nắng, để giúp người trần thế
cày cấy. Nên mỗi năm nhà vua cũng phải cúng
tế Trời, mong “mưa nắng
phải th́”, đất nước thái b́nh.
Công việc nhà nông của ngưởi ḿnh rất
nặng nhọc, phải bỏ rất nhiều công và v́
thế Quốc Văn Giáo Khoa Thư mới nói rằng :
Công lênh chẳng quản
lâu lâu
Chớ nếu tính công, tính giơ,ø trả tiền
như xă hội ngày nay th́ quả không có tánh kinh tế. Tuy
nhiên ở nông thôn, công việc nhà nông là việc gia đ́nh,
của chồng, của vợ và con cái.
Cái hạnh phúc lớn lao nhất của người
nông dân xưa nay là chờ đợi thu hoạch, gặt
hái đem lúa về nhà. Quyết định “thành bại, được thua” người nông dân
phó thác cho Trời, v́ Trời đem mưa, đem
nước.
Nên tới nay vẫn c̣n có câu nói :
Nhứt nước,
Nh́ phân,
Tam cần,
Tứ giống.
Yếu tố nước, yếu tố Trời
vẫn là yếu tố quyết định sống
chết. Vả lại dân ḿnh xưa làm ruộng chỉ có
một mùa, thất mùa là cả nhà đói suốt năm,
mượn lúa, mượn gạo ăn chờ mùa tới
!
Ngày nay nước
bạc, ngày sau cơm vàng
Nước bạc là nước phủ trắng
đồng, và nước cũng chính là bạc, nghĩa là
tiền, để biến sức cày cấy công lao
đổ ra thành “cơm vàng”.
Xem ra hột cơm quí biết dường nào
đối với ông bà ngày xưa.
Trong miền Nam nói “nước bạc”là nói mùa nước đổ từ Nam Vang về sông
Tiền, sông Hậu vào đô tháng 5 tháng 6 âm lịch. Lúc
ấy là lúc con cá linh đổ về làm thay đổi
bộ mặt nông thôn vùng giáp biên giới Tây Nam.
Người ta nói đất phương Nam hào phóng,
nên mùa “cày cấy” trời
đất cho con người ở đây nhiều “món ngon vật lạ” khiến khách phương xa, từ miền ngoài vào
phải ngẩn ngơ, dầu chỉ có một lần
nếm thử.
Nói qua cá linh, theo ông Nguyễn Văn Hầu trong
cuốn “Nửa tháng trong miền
Thất Sơn” th́ vào mùa
nước đổ, cá linh vừa nở con, phiêu bạt
giang hồ vượt biên vào Đồng Tháp Mười,
vào Sông Tiền; qua Láng Linh vào sông Hậu. Từ đó cá linh
con đổ vào sông rạch, lên đồng ruộng rồi đến tháng 10, tháng 11
âm lịch, lúc đó con cá linh “lớn trọng” đổ ra
sông lớn cung cấp cho người dân những bữa
cơm ngon miệng và bổ dưỡng.
Ngon làm sao với món cá linh kho lạt, giầm với
me, hoặc cá linh kho lẩu với mắm ăn với bông
điên điển th́ khỏi chê chỗ nào
được.
Riêng ở G̣ Công cũng hưởng được
món cá linh nấu canh chua bông so đũa, chấm với
mấm tôm chà, ăn với cơm gạo mới. Ăn no
bụng lúc nào không hay ! Nên tuy canh chua cá linh bông so đủa
là bản sao của canh chua cá linh bông điên điển,
nhưng rồi nó cũng trở thành thực đơn,
không thể thiếu của người ḿnh, đeo
đuổi măi đến bây giờ.
Xin ai đừng bỏ
ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng
bấy nhiêu
Từ thời xưa các vua chúa ta đều có chánh
sách khuyến nông, ra lịnh cho địa phương không
để ruộng bỏ hoang. Nhưng từ khi chúa
Nguyễn vào Phương Nam, mở rộng bờ cơi,
như ta biết th́ ruộng đất “c̣ bay thẳng cánh” thiếu
người làm phải đưa dân từ miền Trung
vào. Ai khai hoang, vỡ đất th́ được cấp
quyền sở hữu và khỏi nợp tô (lúa ruộng) cho
quan trong 10 năm. Nên bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần
Giuộc, cụ Đồ Chiểu mở đầu:
Hỡi ơi !
Súng giặc đất rền, ḷng dân
Trời tỏ,
Mười năm công vở ruộng,
chưa chắc c̣n danh nổi tợ
Phao, một trận nghĩa đánh Tây,
tuy là tiếng như mỏ.
Nếu không biết chánh sách khẩn hoang bấy
giờ th́ không hiểu cụ Đồ Chiểu nói ǵ
ở câu “mười năm công
vở ruộng”.
Trong Lục Tỉnh không chỉ làm ruộng, mà tổ
tiên ta c̣n biết trồng các hoa màu, cây ăn trái, như là
một nghề chánh, nay gọi là chuyên canh.
Đó là nghề trồng giồng (trồng rau,
cải, dưa, hành, bắp, đậu, cà trên đất
cao.. ); và trồng cây ăn
trái, lập vườn trồng trầu, cau, ổi,
chuối.
Có dịp về thăm Bến Tre xuống thăm Cù
Lao Bảo, Cù Lao Minh, Cù Lao An Hóa, ruộng lúa xen lẫn
vườn dừa trĩu trái, mới thấy hết công
lao ông bà qua bao nhiều đời mới để lại
cho xứ này trên 40 ngàn mẫu dừa như ngày nay.
Hoặc ghé thăm Cái Mơn quê hương của trái
sầu riêng đặc thù Lục Tỉnh, nơi có sáng
kiến tạo ra kỷ thuật ghép cây, lai giống cây
ăn trái cũng như cây kiểng giúp trên 6000 gia đ́nh
sông dư giă và nhàn nhă nơi đồng ruộng, tận
làng quê.
Ở quê, G̣ Công, nước mặn, đất phèn,
th́ người xưa biết chọn cây thích hợp và
cũng làm giàu làm có, không cần làm ruộng cày bừa
vất vả ...
G̣ Công có cây măn cầu trái tṛn (ngoài Bắc gọi là
quả na), người địa phương gọi là
măn cầu biển, măn cầu dai. Trái măn cầu biển có
vị ngọt mà mặn rất đậm đà, múi
lại dai, ít hột, kể như là loại trái cây cao
cấp, trồng trên đất pha cát ven biền.
Rồi chừng 3 thập niên gần đây, G̣ Công
lại trồng loại cây lạ, ăn chơi mà kiếm
tiền thiệt. Đó là trái Sơ ri G̣ Công, với tên
gọi chứng tỏ rằng cái bản quyền đă
được cầu chứng bởi xứ G̣ Công
rồi.
Do đó ở Lục Tỉnh, trước khi Tây vào,
người ḿnh đă biết lợi dụng cửa sông,
cửa biển để làm nơi giao thương, trao
đổi và biến nơi đó thành thương
cảng. Đó là thương cảng Nông Nại
đại phố ở Biên Ḥa, thương cảng B́nh
Đông (Chợ Lớn ngày nay), thương cảng Phố
chợ Cũ Mỹ Tho, thương cảng Hà Tiên,
đặc biệt ở Băi Xàu, Sóc Trăng, là trung tâm buôn
bán gạo sang tận nước Tàu ( không lên Saigon) có
từ trước thế kỷ 18.
Cảng Bài Xàu một thời gian buôn bán với
nước ngoài, ngoài gạo c̣n gà, vịt, heo, trái cây
đổi lấy hàng vải, chén bát, thuốc Bắc
của Tàu.
Băi Xàu là trung tâm thương mại của Lục
Tỉnh, của người Việt, người Tàu,
người Khờ Me...
tạo nên một nét văn hóa độc đáo c̣n
lại tới nay qua các di tích Đ́nh làng Việt Nam , Chùa
Tàu, Chùa Khơ Me.
Đọc lại bài Cày cấy của Quốc Văn
Giáo Khoa Thư không chỉ thấy nổi cơ cực
của tổ tiên làm ruộng vất vả mà c̣n hiểu
thêm nỗi ḷng, tâm t́nh giữa con người xưa
với thần linh với đấng thiêng liêng
được gọi chung là Trời.
Tây Phương khác Đông phương trong ư niệm
Trời Đất. Người ḿnh quan niệm giữa
Trời và Người có sợi dây ràng buộc, có thứ
luật vô h́nh chi phối gọi là Đạo, Đạo
Trời.
Phải chăng nhờ vậy mà tộc ḿnh sống
luôn lạc quan yêu đời, vượt qua bao thử thách
lịch sử suốt 4000 năm?