SƯƠNG NGUYỆT ANH
Tấm
gương nữ lưu Nam Kỳ
Nam Sơn Trần Văn Chi
Đem chuông lên đánh Sài G̣n
Để cho nữ giới biết con
cụ Đồ
(Ca dao Bến
Tre)
Sau
Mậu Thân, chung cư Ấn Quang, Minh Mạng
được xây tại khu vực Ngă Sáu Chợ Lớn,
và cũng tại đây, Trường Nữ Trung Học
Tổng Hợp Sương Nguyệt Anh đầu tiên
của Việt Nam cũng được xây dựng
với sự bảo trợ của Huê Kỳ.
Trường khánh thành năm 1971, ngoài chượng tŕnh
phổ thông trung học, trường c̣n dạy thêm môn
nữ công gia chánh, may vá nấu ăn, kế toán đánh máy,
âm nhạc, hội hoạ, nghệ thuật cắm hoa, vơ thuật… Nữ sinh từ
lớp 6 được học cả hai sinh ngữ Anh và
Pháp với pḥng thính thị máy
móc rất tối tân để luyện giọng…
***
Bà Nguyễn Thị Khuê (1864-1922), bút hiệu
là Nguyệt Anh, con gái thứ tư của cụ Nguyễn
Đ́nh Chiểu, nên ở nhà gọi là cô Năm Hạnh,
gọi theo cách gọi Miền Nam. Tên của bà có sách ghi là
Nguyễn Xuân Khuê, Nguyễn Thị Ngọc Khuê, Nguyễn
Thị Xuân Khuê, nhưng theo Nguyễn Chi Thế Phổ
của gia đ́nh Nguyễn Đ́nh Chiểu ở Bến
Tre th́ ghi bà tên là Nguyễn Thị Khuê. Sau khi chồng
chết, Bà thủ tiết, thêm chữ Sương vào bút
hiệu của ḿnh thành ra Sương Nguyệt Anh, có
nghĩa là Nguyệt Anh goá chồng. (Sương là giột
nước ban đêm rơi đọng trên lá cây ngọn
cỏ. Chữ Sương c̣n chỉ người đàn bà
ở góa, Sương
khuê chỉ cái bóng của người phụ nữ
ơ góa.)
Bà Nguyễn Thị Khuê sanh ngày 8/3/1864
tại xă An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre;
cha là cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu,
mẹ là bà Nguyễn Thị Điền. Khi Nguyễn
Thị Khuê sanh ra th́ cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu đă
từ Cần Giuộc dời về ở Ba Tri Bến Tre.
Bà cùng người chị tên Nguyễn
Thị Kim Xuyến được cha truyền dạy chữ Hán,
chữ Nôm. Cả hai chị em đều rất thông minh,
nổi tiếng tài sắc, được người
trong làng ca tụng là Nhị Kiều. Từ nhỏ bà
đă chịu ảnh hưởng của ḍng máu “Chở
bao nhiêu đạo thuyền không khẳm / Đâm
mấy thằng gian, bút chẳng tà” của người
cha khí phách hiên ngang, yêu nước thương dân…
Chữ Hán của Nguyễn Thị Khuê
từ thời con gái, có thể làm thơ xướng
họa được với các Nho sĩ hay chữ
đương thời. Bà cũng làm thơ Nôm, nhắc
nhở mọi người hăy nhớ đến cảnh
nhà tan, nước mất, phải sống sao không hổ
với đất nước...
Nhưng “Hồng nhan gian truân”, con
đường t́nh duyên của Nguyễn Thị Khuê không
may mắn!
Năm 1888, cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu
mất, Nguyễn Thị Khuê được 25 tuổi. Bấy giờ có một ông Tri
phủ đến hỏi bà làm vợ không được,
bèn đem ḷng oán hận, t́m cách hăm hại. Bà cùng gia đ́nh
của người anh ruột phải bỏ xứ về
ở Cái Nứa (Mỹ Tho)
rồi sau lại dời về Rạch Miễu ở
nhờ nhà của ông nghè Trương Văn Mân.
Tại đây, bà kết duyên với ông Phó
Tổng sở tại, góa vợ, tên Nguyễn Công Tính, và
sanh được một gái tên là Nguyễn Thị Vinh.
Năm con gái được 2 tuổi,
th́ chồng mất. Từ đó bà thủ tiết thờ
chồng nuôi con, và mở trường dạy chữ Nho
để sanh sống.
[Sau nầy Nguyễn Thị Vinh lấy chồng là ông
Mai Văn Ngọc, sanh một cô con gái đặt tên Mai
Huỳnh Hoa nhũ danh Kim Ba. Mai Huỳnh Hoa sau kết duyên
với nhà hoạt động chánh trị, nhà yêu
nước nổi tiếng là Phan
Văn Hùm (1902-1946), tác giả cuốn sách Ngồi Tù
Khám Lớn (1929)].
Chồng chết, Nguyễn Thị Khuê
thủ tiết lấy bút hiệu Sương Nguyệt Anh.
Nhưng ngươi “mẹ-goá-con-côi” tài hoa hương
sắc nào có được yên, luôn bị những
đấng mài râu làm thơ vở tṛ ong bướm.
Chuyện thơ văn xướng hoạ của bà trong
thời gan nầy để lại nhiều giai thoại
văn chương tới nay:
Đối (Ông Bảy Nguyệt ở
Mỏ Cày):
Ai về nhắn với Nguyệt Anh cô
Chẳng biết ḷng cô nghĩ thế mô?
Không phải văi chùa toan đóng cửa
Đây ḷng gấm ghé bắc cầu Ô
Đáp (Sương Nguyệt Anh):
Chẳng phải Tiên cô, cũng đạo
cô
Cuộc đời dâu bể biết là mô?
Lọng sườn dẫu rách c̣n kêu
lọng
Ô bịt ṿng vàng cũng tiếng ô
Phải
thời cô quả chịu thời cô
Chẳng biết tuồng đời tính
thế mô?
Ḍm thấy bụi trần toan đóng
cửa
Ngọc lành chi để thẹn danh ô
Sau đó Bà Sương Nguyệt Anh lên Sài
G̣n, làm thơ, viết báo đăng trên tờ Nữ Giới Chung-Tiếng
Chuông Nữ Giới, do ông Trần Văn Chim làm chủ bút.
Rồi những năm 1906-1908 phong trào Đông Du
của cụ Phan Bội Châu nổi lên rất
mạnh ở Sài G̣n bà bán một phần điền
sản và vận động quyên góp để giúp học
sinh xuất dương sang Nhật
du học. Tư tưởng của Sương Nguyệt
Anh so với phụ nữ đương thời thật
tiến bộ, văn chương mạnh mẽ qua
những lời kêu gọi mọi người hưởng
ứng Đông Kinh Nghĩa thục và phong trào Duy Tân.
Tiếng tăm của bà ngày càng được nhiều
người biết, đến năm 1917, Sương
Nguyệt Anh được một nhóm chí sĩ ái quốc
mời làm chủ bút
tờ Nữ Giới Chung.
Chủ nhiệm Nữ Giới Chung là
ông Henri Blanquière, số báo đầu tiên ra mắt
độc giả ngày 1/2/1918 tại Sài G̣n, toà soạn
đặt tại số nhà 15 đường Taberd (nay là
đường Nguyễn Du, quận 1, Sài G̣n). Báo phát hành
định kỳ hàng tuần vào ngày Thứ Sáu, có 8 trang
quảng cáo, 18 trang nội dung bao gồm xă thuyết,
văn nghệ, gia chánh, học nghề, lời hay ư
đẹp, vân vân.
Cũng trên tờ Nữ Giới Chung này, c̣n
có những bài thơ đề cao tinh thần quật
khởi của các nữ anh hùng dân tộc như bà
Trưng, bà Triệu, hoặc đăng những bài thơ
đề cao nữ quyền, đặc biệt có nêu hai
câu thơ như là khẩu hiệu kêu gọi phụ
nữ:
Vang lừng nữ giới những hồi
chuông,
Thúc bạn quần thoa thoát cửa
buồng...
(Số 8 ra ngày 22-3-1918)
Tờ báo tập hợp được
những nhà báo tiến bộ, lên tiếng đ̣i nam nữ
b́nh quyền, thúc giục, vận động giới
phụ nữ hăy học hành, đấu tranh cho
được ngang hàng với nam giới như phụ
nữ ở các nước tiên tiến Châu Âu, châu Mỹ.
Ngoài khẩu hiệu thúc
dục phụ nữ: Vang
lừng nữ giới những hồi chuông/Thúc bạn
quần thoa thoát cửa buồng , bà Sương Nguyệt Anh cũng đích thân viết bài đ̣i hỏi
nữ quyên:
“Thời thế bể dâu, cục diện
đă khác... Chị em ơi!... Muốn có cái địa
vị ngang hàng với nam giới th́ (chẳng những)
việc tề gia nội trợ phải thuộc ḷng, t́nh
thế trong ngoài cũng nên ghé mắt, tuy chưa
được như người Âu Mỹ song cũng
đừng phụ tiếng Lạc Hồng” (Số 8 ngày 22-3-1918)
Bà là người mạnh dạn và công khai
viết báo kêu gọi thanh niên Việt Nam không nên đi lính
cho Pháp trong chiến tranh thế giới thứ nhứt
1914-1918, qua bài thơ Chinh Phụ:
Cỏ rạp sân thềm liễu rủ
tơ,
Chàng đi bao thuở lại quê nhà?
Nửa đêm trăng xế, ḷng ngao ngán,
Chiếc gối quyên gào lụy nhỏ sa.
Ải Bắc mây giăng che bóng nhạn,
Vườn Xuân nắng tắt rẻ mày nga
Nhớ nhau mấy lúc chiêm bao thấy
Ngàn dặm lang quân biết chẳng là?
(Chinh Phụ Thi, Nguyễn Đ́nh Chiêm dịch)
Chủ trương của
Sương Nguyệt Anh khiến cho mật thám Pháp e
ngại, các mạnh thường quân bị áp lực
phải ngưng bảo trợ Nữ Giới Chung !
Đến tháng 07 năm 1918,
sau gần một năm có mặt , Nữ Giới Chung
buộc phải đ́nh bản do khó khăn tài chánh.
Cũng ngay lúc nầy, người con gái
độc nhứt của bà tên Nguyễn Thị Vinh qua
đời sau khi sanh nở. Hết khóc mẹ, khóc cha, khóc
chồng, nay bà lại phải khóc con, khiến đôi
mắt bà bị đau rồi bị mù ḷa hẳn.Từ
đấy, sớm chiều bà lại tiếp tục
dạy học và sáng tác thơ văn.
Bà mất ngày 12 tháng chạp năm Tân
Dậu (tức 9 tháng 1 năm 1922) lúc 58 tuổi. Mộ Bà
lúc đầu ở Mỹ Nhơn, sau năm 1959
được đồng bào địa phương
cải táng dời về chôn cạnh mộ phần của
song thân, trong khu mộ Nguyễn Đ́nh Chiểu ngày nay.
***
Sanh ra giữa lúc tiếng súng xâm lăng
của giặc Pháp nổ trên mảnh đất quê
hương Nam Kỳ Lục Tỉnh, lớn lên Nguyễn
Thị Khuê đă từng chứng kiến những cảnh
thống khổ của đồng bào và bà cũng thấy
rơ bộ mặt thật của giặc Pháp bấy giờ.
Bà và cả gia đ́nh Nguyễn Đ́nh Chiểu cũng cùng
chung số phận ấy với người dân. Do đó,
thơ của Sương Nguyệt Anh, bên cạnh tính
chất trang nghiêm, nho nhă vẫn hàm chứa nỗi niềm
thiết tha, ưu tư sâu lắng đối với dân
với nước.
Khi Vua Thành Thái vào Nam, Bà làm thơ nhắc
nhở vua trong lúc bên yến tiệc xa hoa, ngựa xe đón
rước, chớ quên dân chúng trong tay giặc, lầm than,
nghèo đói, lam lũ... Lời thơ b́nh dị, kín đáo
mà nghĩa khí tràn đầy, nam nhi đương thời
cũng khó bề sánh nổi:
“Ngàn thu nay gặp hội minh lang,
Thiên hạ ngày nay chí mở mang
Tấc đất ngọn rau tràn
dưới mắt,
Đai cân bầu nước chật ven
đàng!
Vui ḷng thánh đế nơi xe ngựa
Xót dạ thần dân chốn lửa than
Nước mắt cố cùng, trời
đất biết
Biển dâu một cuộc nghĩ mà
thương”.
(Thơ
tiễn ông Kinh Hối nhậm chức ở Sa Đéc)
Phong
cảnh mặc dầu chia đất khác
Nắng mưa đâu cũng đội
trời chung
Quê người tạm gửi nhành
dương liễu,
Đường hoạn xin tṛn phận
kiếm cung..
Bên cạnh sự đoan trang, nền
nếp, bà vẫn có một tác phong giao du phóng khoáng, có quan
hệ rộng răi với nhiều tầng lớp xă
hội. Thời con gái cũng như khi đă có chồng
con, hay lúc góa bụa, bà vẫn giữ cung cách giao tiếp
tự nhiên.
Năm canh thức
nhấp,năm canh những
Nửa gối so le, nửa
gối chờ
Vườn én rủ ren trên
lối cũ,
Canh gà xao xác giục t́nh
xưa...
(Tự Thán khi chồng
chết)
***
Sương Nguyệt Anh sáng
tác nhiều, nhưng v́ không được tập trung in
thành sách nên nay chỉ c̣n tản mác một số bài thơ,
như: Đoan Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự
, Chinh Phụ thi, Thưởng bạch Mai, Vịnh
ni cô, vua Thành Thái vào Nam, cảm tác khi lính Việt
đi Âu chiến...Và vài bài vè, như: Vè tiểu yêu, Vè
Thầy Hỷ, Vè đánh đề ...
Thơ của Sương
Nguyệt Anh thường là thơ Nôm,
theo thể Đường
luật. Thơ của
bà là để đối đáp lại những
người đă trêu ghẹo, đă tỏ t́nh với ḿnh,
nhằm nêu lên đức kiên trinh của người
phụ nữ Nam Kỳ Lục Tỉnh bấy giờ. Như:Tiễn
ông Kinh Hối nhậm chức kinh lịch ở Sa Đéc, Họa
thơ Bảy Nguyên, Họa thơ Phủ Ngọc, Họa thơ Bái Liêu, Thưởng
Bạch Mai, Vịnh ni cô...
Cuộc đời Sương Nguyệt Anh
đă trải qua biết bao đau khổ, nhưng nói
đến Sương Nguyệt Anh, là nói đến Nữ
Giới Chung, nói đến một tấm gương
hoạt động cho nữ lưu Nam Kỳ buổi giao
thời vào thế kỷ 19-20.
Sương Nguyệt Anh rất xứng
đáng là nữ sĩ tiền phong, tên Bà xứng đáng
được đặt tên trường và tên
đường ở Sài G̣n và cả nước.
Ngày 10 tháng 10 năm 2008
tranvannamson@gmail.com