Phần
III – Đất nước và con người
LÀNG
TÔI
Thuở xưa, người ḿnh lúc Tây chưa vô th́
đa phần sống ở thôn quê. Bấy giờ
nước ta chưa có thành thị. Người dân đâu
ở đó, trao đổi hàng hóa sản phẩm ở
chợ quê. Nền kinh tế của ḿnh là nền kinh
tế nông nghiệp tự cung tự cấp.
Làng Việt Nam là đơn vị hành chánh cơ
sở nhỏ nhất, nhưng nó là cơ bản của xă
hội. Làng c̣n là chỗ tập hợp sinh hoạt của
cộng đồng dân chúng; nơi đó ngoài trụ sở
hành chánh, trong Nam gọi là Nhà Việc (như ở Mỹ gọi là Civic
Center) c̣n có Đ́nh và Chùa.
Mọi sinh hoạt của người dân đều
xoay quanh đ́nh và chùa. Làng nào trong Nam cũng đều có
đ́nh. Đ́nh là nơi thờ thần của làng. Sắc
thần do vua ban, được giữ kỹ trong một hộp gỗ
do một kỳ lăo cất giữ, hàng năm vào ngày hội
cúng đ́nh, sắc mới được thỉnh đem
về Đ́nh làm lễ cúng. Đ́nh do quỹ chung của
làng đóng góp xây dựng, gọi là quỹ công nho (1). Trái
lại, chùa do cá nhân xây dựng nên, rồi thỉnh sư
về trụ tŕ. Thuở xưa, trong xứ Nam Kỳ các
nhà giàu thường dựng chùa để làm phước
và c̣n hiến cho chùa đất vườn, đất
ruộng để làm tịnh tài lo cho chùa. Phật giáo trong
Nam h́nh thành như vậy, chớ có giáo hội ǵ đâu.
Tùy hoàn cảnh, tùy duyên mà chùa, đ́nh được
xây dựng, nên không có kế hoạch, và không tập trung
xung quanh Nhà Việc.
Đ́nh và Chùa c̣n là nơi giải quyết hầu
hết những mâu thuẩn, vướng mắc t́nh
cảm, pháp lư của dân làng. Tuy chế độ Việt
Nam xưa là phong kiến trung ương tập quyền,
nhưng làng ở Việt Nam mang tính tự trị, không
như làng ở Châu Âu .
Phép vua thua lệ làng
Câu nói trong dân gian xưa nay nói lên xă thôn Việt Nam ḿnh
ngày xưa là dân chủ cấp cơ sở rất cao. Pháp
vào cai trị ḿnh coi đó là nét độc đáo và duy tŕ
ở xứ Nam Kỳ thuộc Pháp; các nhà luật pháp cũng
lấy đó mà viết sách, dạy học trong các
trường luật Việt trước đây. Trong
Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ Đẳng
(lớp nhứt trường làng) có bài “Làng Tôi” xin trích :
Làng tôi gần ở
tỉnh, xung quanh làng có lũy tre, đứng ngoài không nom
thấy nhà cửa. Đầu làng cuối làng có cổng xây
bằng gạch.
Mấy ông biên soạn (2) tả cái “làng tôi” ở miền Bắc; nên
rất xa lạ với học tṛ Nam Kỳ Lục
Tỉnh. Cái lũy tre đi vào thi ca văn chương, mà
sự thực người ở Nam Kỳ không có khái
niệm ǵ về lũy (3) tre cả.
Giống như thanh niên Việt Nam thế hệ
thập niên 50, 60 thích nói về ”ḍng sông Seine” về “gare Lyon đèn vàng!” (4).
Cũng giống như trường hợp Tự
Lực văn Đoàn. Số là khi ”nước nhà
độc lập”, cụ Hoàng Xuân
Hăn soạn ra chương tŕnh giáo dục đầu tiên,
cụ đưa mấy tác phẩm trong Tự Lực
Văn Đoàn vào chương tŕnh Trung Học. Sự
thể làm cho cả thế hệ học tṛ miền Nam
tưởng rằng trong lục tỉnh cũng có cô Loan
hoặc các ông bà Phán ! Thật
t́nh trong xứ Nam Kỳ xưa, xă hội đâu có phong
kiến như thế, nên đâu nhứt thiết phải “đoạn tuyệt” như cố gái Loan đoạn tuyệt gia đ́nh
chồng!
Bài ”Làng tôi” trong Quốc
Văn Giáo Khoa Thư, tả cảnh “làng tôi” êm đềm thơ mộng, cuộc sống
b́nh dị,in đậm trong trí mọi người. Xin trích
:
“Trong làng có nhà cửa
phần nhiều là nhà lá. Nhà nào cũng có sân có vườn,
hoặc có ao nữa, xung quanh có hàng rào tre. Ngoài vườn
th́ trồng rau, khoai cùng các thứ cây có quả .
Đường sá th́ chỉ có con
đường chạy thẳng qua làng là rộng, c̣n th́
những lối đi hẹp, khúc khuỷu quanh co”.
Cuối bài ”Làng tôi”, tác giả toát yếu bằng câu: Sống ở
làng, sang ở nước.”
Đây là chủ đích của Quốc Văn Giáo Khoa
Thư, nên bài nào tác giả cũng tóm bằng một câu
tạo ấn tượng và giáo dục học tṛ. Đúng
là cái tâm cảnh người Việt ta xưa kia là như
thế, mà ngay cả ngày nay cũng c̣n. Làng là nơi thể
hiện t́nh cảm gắn bó, tương lân xóm cḥm, khi”tối
lửa tắt đèn” (5) vui buồn,
hoạn nạn có nhau. Những biểu hiện tiêu cực,
xấu xa, vô đạo đức không thể tồn
tại. Do vậy v́ “sống ở
làng” nên mọi người phải tử tế với
nhau làm cho cộng đồng, làng xóm an cư thịnh
vượng, mọi người thấy b́nh an.
Từ ở làng con người vươn ra xă
hội xung quanh lớn hơn, để thi thố, hun chí
nam nhi mà đóng góp cho nước. Sang ở nước” là ư đó. Đem chí tang bồng trả ơn vua,
lộc nước, mới làm cho con người nam nhi sang.
Chữ “Sang” ở đây không phải sang v́ của, v́
tiền, v́ ruộng đất; mà ”sang v́ nước” là hiểu theo nghĩa góp đền
nợ nước, ơn vua. Do vậy, con người ta,
đặc biệt Việt Nam ly hương, ai cũng
muốn đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng ”quê hương xứ sở”; nếu không th́ cảm thấy cuộc đời vô
nghĩa, như cây cỏ vô tri vậy !
Năm mươi năm, đọc lại Quốc
Văn Giáo Khoa Thư, nhân bài ”làng tôi” với câu :
Sống ở làng, sang ở nước khiến
thắm thía làm sao, nhứt là càng về già.
Giá trị của Quốc Văn Giáo Khoa Thư măi măi
ở trong ḷng thế hệ của chúng ta, ngoài những
kỷ niệm về thời thơ ấu, nó c̣n có giá
trị cao về giáo dục, măi tới ngày nay.
(1)
Công nho : do đọc trại chử
công nhu là quỹ dành cho việc chung, nhu cầu chung
(2)
Ô. Trần
Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đ́nh
Phúc và Đỗ Thận
(3)
Lũy : bờ đất tre trồng làm
hàng rào ( giải nghĩa của Quốc Văn Giáo Khoa
Thư)
(4)
Sông Seine chảy qua Paris, ga xe lửa Lyon
ở thủ đô Paris bên Pháp
(5) Ư nói khi gặp hoạn nạn khẩn cấp
cần giúp ( emergency)