NÓI CHUYỆN
HÁT BỘI
Nam Sơn Trần Văn Chi
Sân khấu Việt Nam có ba bộ môn thịnh hành là hát
bội, cải lương và thoại kịch. Riêng hát
bội là loại h́nh sân khấu cổ điển và
đặc biệt, bởi: 1/ Nội dung tuồng tích
phản ảnh lối sống theo luân lư Nho giáo, bài bản
xưa, cho nên không phải người nào xem hát bội
cũng hiểu; 2/ Nghệ thuật hát bội từ
cảnh trí sân khấu, điệu bộ ca múa, vẽ
mặt vừa cường điệu vừa mang tánh
“tượng trưng”, ẩn dụ khiến người
coi phải quan sát tường tận, suy nghĩ và phải
am tường nghệ thuật mới lănh hội
được.
* * *
“Hát bội” hay “hát bộ” nhiều người
vẫn chưa thống nhứt cách gọi và có nhiều
cách giải thích khác nhau. Nhưng đa số cho là “hát
bội”.
Theo tự điển “Đại Nam Quốc Âm Tự
Vị” của Huỳnh Tịnh Của giải thích:
“bội” là “hơn” là “bằng hai”, và hát bội là “con hát,
kẻ làm nghề ca hát”.
Hát bội do chữ “bội” mà ra. Bởi lẽ xem hát
bội ai cũng thấy rằng từ cách vẽ mặt,
điệu bộ, lời nói... cái ǵ cũng làm gia bội
thêm, cường điệu thêm rất nhiều.
Nguồn gốc hát bội từ đâu?
Theo ông Đỗ Văn Rỡ th́ 'hát bội” là nghệ
thuật có nguồn gốc VN là chủ yếu, ảnh
hưởng của Trung Quốc, của Chiêm Thành
đến sân khấu cổ truyền Việt Nam là
điều không thể phủ nhận. (Địa chí Văn
Hóa Thành Phố HCM, tập III, nxb TPHCM 1998).
Theo lịch sử, năm 1283, tướng nhà Nguyên là
Toa Đô sang xâm chiếm nước ta, bị Trần Hưng
Đạo đánh đuổi, quân ta bắt sống
được nhiều tù binh trong đó có 12 danh ca biết
múa hát mà nổi tiếng là Lư Nguyên Cát. Vua Trần Nhân Tông
hậu đăi và truyền Lư Nguyên Cát dạy cho người
ḿnh thêm về điệu hát bội.
Trước đó ta đă biết múa hát, “tuồng
tích” nội dung đă có trước rồi, chỉ học
lối vẽ mặt, y trang và các điệu múa của
Trung Quốc mà thôi.
Điều này đă được chứng minh qua h́nh
ảnh trên mặt trống đồng, ở đó có
khắc h́nh người hóa trang, nhảy múa với vũ
khí và chắc phải có ca hát nữa.
Thời kỳ Việt Nam độc lập vào
thế kỷ thứ X, triều nhà Lư, đến nhà
Trần nước ta phát triền rực rỡ về
chánh trị, học hành, xă hội và hát bội chắc
sẽ phát triển vào lúc này.
Hát bội thời nhà Lư cũng như Hát Chèo, chỉ
là tṛ chơi ca múa giải trí và tự phát trong dân gian. Khi hát
bội vào đến cung đ́nh th́ có xiêm y rực rỡ,
có nội dung hỉ, nộ, ái, ố... và tuồng tích rơ
nét.
Cứ như thế hát bội ở nước ta
phát triển song hành làm 2 ḍng: dân gian và cung đ́nh,
tương tác nhau, bổ sung nhau đưa nghệ
thuật hát bội phát triển đến thời Hậu
Lê.
Đến năm 1437 vua Lê Thái Tông (1437-1442) ra lịnh
đuổi hát bội ra khỏi cung đ́nh. Vua c̣n ra
lệnh cấm quan lại, con cái nhà quan lấy đào hát
làm thê thiếp.
Lư do nêu ra là “v́ hát bội có hại đến việc
giáo hóa”, v́ hát bội có ư “bôi lọ người làm vua, làm
quan.” Điều nầy được ghi vào trong Bộ
Lễ.
Năm 1462 vua Lê Thánh Tông c̣n định ra lê cấm con
nhà hát bội, tuồng, chèo, ả đào không
được đi thi, và ông Đào Duy Từ nằm trong
trường hợp này.
Do đó hát bội chỉ c̣n tồn tại trong dân
gian và hoạt động không công khai. Nên mới có câu ca dao
“Trồng trầu, trồng lộn với tiêu/ Con theo hát
bội, mẹ liều con hư!”
Xem như vậy hát bội nguồn gốc của
Việt Nam, sau nầy lấy thêm “điệu múa”, nhạc
của Trung Hoa từ thế kỷ XIII. Hát bội bị
suy tàn ở đàng Ngoài và phát triển manh ở đàng
Trong nhờ Đào Duy Từ.
Rồi hát bội chịu ảnh hưởng Chàm khi
nào?
Nguyễn Hoàng vốn có ư muốn “dời đổi
phong tục” (Phan Khoang, Lịch sử Đàng Trong) nên
đến khi Đào Duy Từ chạy vào Nam, được
chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635 thâu dùng cử làm Nội
Tán. Đào Duy Từ (1572 -1634) vốn thông minh, giỏi thơ
văn, binh thơ đồ trận, nhưng v́ thân phụ
ông là Đào Tá Hán xuất thân nghề ca hát nên ông bị Hiến
Ty Thanh Hóa không cho thi Hương.
Những người theo Đào Duy Từ, trong đó có bà
con vốn theo hát bội, vào định cư ở phủ
Hoài Nhơn B́nh Định, thâu nhận một số
người địa phương lập gánh hát. Đào Duy
Từ cố ư dạy dân hát theo giọng địa
phương và ca hát kéo dài ra làm cho khác lối ca ngắt câu
“ví ư, í ư” như lối ca hát bội của Lê
Trịnh ở Bắc.
Đến năm 1404 Lư Thái Tông đi đánh Chiêm Thành
bắt được nhiều hầu thiếp của vua
Chiêm là Xạ Đẩu, đem về xây nhà riêng cho ở và
truyền họ múa hát cho vua xem từ đó hát bội mang
ảnh hưởng Chàm. (Theo Việt Nam Sư Lược
của Trần Trọng Kim)
Đến năm 1679 các tướng Minh như
Dương Địch Ngạn, Hoàng Tiến, Trần
Thượng Xuyên được Chúa Nguyễn cho tị
nạn ở Mỹ Tho, Biên Ḥa; rồi đến năm
1708 Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho Chúa th́ nghệ
thuật hát Tiều, hát Quảng của người Hoa
ảnh hưởng lên hát bội Việt Nam đồng
thời và làm cho tánh chất Chàm mờ đi rất
nhiều.
Năm 1698 Nguyễn Hữu Cảnh đặt nền
móng cho Đông Phố, Gia Định, Biên Ḥa, rồi đất
Lục Tỉnh thuộc về chúa, nhưng văn hóa Chân
Lạp (Miên) không để lại dấu vết nào trong
nghệ thuật hát bội Việt Nam.
Hát bội Việt Nam vào đàng Trong phát triển
mạnh, về nghệ thuật khởi đầu
chịu ảnh hưởng người Chàm qua điệu
“hơi Nam” nghe u buồn, uẩn ức, tâm t́nh thương
cảm... rồi cuối cùng tiếp nhận hát Tiều,
hát Quảng qua “hơi Khách” nghe vui tươi, trong sáng và huy
hoàng làm nê hát bội Việt Nam.
Riêng ở B́nh Định hát bội tạo riêng cho ḿnh
sắc thái đặc biệt trở thành cái nôi của hát
bội miền Trung.
Hát bội B́nh Định cũng gốc từ Đào Duy
Từ cải biến từ Hát Chèo ngoài Bắc với
lối hát của Chiêm Thành. Đến thời Tự Đức
hát bội B́nh Định được Đào Tấn xây dựng
nặng phát triển hướng về “trí thức - cung
đ́nh” văn chương bác học.
Đào Tấn (1845-1917) người B́nh Định. Đỗ
Cử nhơn, làm quan đến hiệp tá đại
học sĩ, có tiếng là người thanh liêm và công b́nh.
Tương truyền rằng thuở xưa Đào
Tấn có mở trường dạy hát bội tại quê
ông lấy tên là “Học bộ đ́nh”. Đào Tấn là
người có công sáng lập và phát triển hát bội B́nh
Định lên đến “tuyệt đỉnh về nghệ
thuật cũng như văn chương” và những kép
hát nổi tiếng thời Đào Tấn đều
được phong tặng phẩm hàm. (Theo Quách Tấn,
Nước Non B́nh Định)
Đào Tấn c̣n là người soạn nhiều tuồng
hát bội hay được lưu truyền về sau
như tuồng Trầm Hương, Tân Dă, Cổ Thành, Hoàng
Cổ, Vạn Bửu Tŕnh Tường, Quần Tiên
Hiến Thoại, Tứ Quốc Lai Vương... Các tuồng ông nhuận sắc như Hồ
Sanh, Khuê Các Anh Hùng, Sơn Hậu, Hoàng Phi Hổ...
Hát bội B́nh Định xưa cũng hát trong đ́nh,
miếu hoặc tại tư gia. Rạp dựng tạm,
sân khấu “không có ǵ hết” ngoài bộ ván, có tấm
vải che hậu trường làm phông, trên có đôi
liễn. Người coi hát chỉ quan tâm đến
điệu bộ hơn là ca trúng hay trật khen chê tùy tùy
theo người cầm chầu.
Người B́nh Định rất mê hát bội và sau
nấy có nhiều người trở thành đào kép
cải lương. Vua Tự Đức và Thành Thái cũng
rất mê hát bội. Hát bội B́nh Định bắt
đầy suy tàn sau khi Đào Tấn chết.
* * *
Hát
bội là một loại h́nh sân khấu mang tánh
“tượng trưng” (art symbolique) về: cảnh trí-sân
khấu, điệu bộ-ca diễn, và vẽ mặt-y
trang
-Về cảnh trí
sân khấu hát bội rất đơn giản “không có ǵ
hết. Đó có thể là bộ ván, cái sạp
bằng gỗ trên có trải đệm hoặc chiếu
bông, cũng có thể là “tiền đ́nh của cái
đ́nh”... không đủ lớn và đủ cao, khán
giả ngồi xa không trông thấy được.
Mọi cảnh trí bày ra trong cái không gian gọi là sân
khấu đó đều đơn giản “nghèo nàn tầm
thường” mang tánh ước lệ, tượng
trưng. Yếu tố thời gian và không gian không
được ghi trên tấm bảng “10 năm sau” hay
“đây là từng núi”... như sân khấu cổ thời
Shakespeare.
Trên sân khấu, phía sau có tấm màn phông xẻ đôi
chính giữa nếu cần làm cửa ra vô của
tướng soái hay vua; trước màn có cái bàn vài ba cái
ghế ngồi, trên phông màn có treo đôi liễn viết
mấy chữ Tàu nói lên tên tuồng hát.
Hai bên sân khấu là hai tầm màn che làm “cửa sanh
cửa tử” cho đào kéo ra vô; phía trước có dựng
tàn lọng gươm giáo.
Sân khấu như để cho “thầy tuồng” tùy
nghi bố trí theo ư ḿnh qua điệu bộ và ca diễn
của đào kép. Chỗ nầy có thể là triều
đ́nh với bá quan văn vơ hay chốn hậu cung; có
thể là băi chiến trường, nơi phi ngựa...
Chỉ có màn phông, Không có màn cảnh phụ, cũng
không có đèn màu, đèn chiếu làm nổi bậc, mà
tất cả chỉ có một loại ánh sáng.
Mặt tiền sân khấu có tấm màn kéo lên khi tŕnh
diễn, thả xuống kéo lên khi đổi lớp,
thả hẳn khi văn hát.
Cái bàn có chiếc ghế có thể là chỗ vua
ngự. Cái ghế lật nằm xuống có thể làm
nấm mộ để cô đào qú xuống khóc chồng,
khóc cha! Hai chiếc ghế lật ngửa làm ḥn núi cảng
lối ngựa phi...
Cái bàn khi th́ làm quán rượu, lúc lại là chỗ
công quyền, chốn pháp đ́nh xử án... Hai chiếc
chiếu trải làm sông làm biển, hoặc căng lên làm
mây làm gió, tuyết v.v...
- Về
điệu bộ ca diễn. Hát
bội cái ǵ cũng được gia bội thêm trong
đó có điệu bộ. Tuy nhiên mọi động tác
gia bội đều phải tuân thủ theo một qui
tắc nhứt định mà người nghệ sĩ
phải biết.Tất cả động tác của
nghệ sĩ trên sân khấu đều mang ư nghĩa
tượng trưng sao cho người coi hát tưởng
tượng ra hay h́nh dung ra nhân vật, ra t́nh huống
thật của câu chuyện. Cho nên nói hát bội là một
loại h́nh sân khấu mang tánh “nghệ thuật
tượng trưng” là vậy. Như:
- Động tác cầm thương, tiếp nhận
ngựa từ tên quân hầu là giả, là tượng
trưng nhưng phải thể hiện được t́nh
huống đang xảy ra trong kịch bản như lên
ngựa xuất trận...
- Ông quan văn trung, quan nịnh vuốt râu thế nào?
Quan vơ hữu vơng vô mưu, người nghĩa khí
đều có cách vuốt râu, đi đứng ra sao?
- Tâm lư nhân vật trong hát bội buồn, giận,
sợ, thương, ghét, yêu, ghen... cũng không như
cải lương hay thoại kịch mà rất ư là gia
bội thêm “màu mè”, khác thường nhưng mang tánh kinh
điển “rất là hát bội”. Tất cả đều
có nguyên tác.
- Về vẽ mặt, y trang. Hát bội có lối
“vẽ mặt” đặc thù xuất phát từ lịch
sử lâu đời. Tương truyền rằng ngày
xưa bên Tàu, các tướng ra trận thường đeo
mặt nạ để tăng thêm vẻ oai nghi, làm cho
đối phương sợ. Chuyện kể rằng có
tướng tên là Lan Lăng Vương thời Bắc
Tề (479-501) đánh giặc giỏi nhưng nét mặt
không oai, mỗi khi ra trận đều đeo mặt
nạ nên trăm trận trăm thắng.
Hát bội lúc đầu cũng đeo mặt nạ,
sau thay vào bằng cách vẽ mặt cho tiện, và truyền
măi tới nay.
Vẽ mặt không phải như hóa trang ngày nay, mà màu
sắc rất sặc sỡ như đỏ tươi,
đen sậm, trắng bạch... nói lên
tánh t́nh của nhân vật. Tất cả cũng
phải theo nguyên tắc “tượng trưng” của hát
bội.
Quan vơ trung thần vẽ mặt đỏ ói như
Quan Công; Trương Phi trung mà nóng vẽ mặt đen có
pha tṛng trắng...
Nịnh thần vẽ mặt trắng móc nên có
chữ gọi kẻ nịnh là “mặt móc”; Thầy rùa
vẽ cặp mắt thao rực gọi là thầy rùa
mắt thao.
Quan văn trung hậu có lúc để mặt thật,
không vẽ mặt; tướng Phiên ở biên cương
vẽ mặt rằn ri có nhiều màu cho thấy tánh man
rợ... Thần tiên vẽ chấm đỏ son trên hai g̣
má, vẽ râu dài.
Đào thương th́ chỉ giồi phấn thoa son.
Như vai Đào Tam Xuân vẽ vặt nửa đỏ nửa
trắng, vai Chung Vô Diệm vẽ mặt đen.
Màu sắc và lối vẽ mặt trong hát bội
tượng trưng cho tánh khí của nhân vật
được tôn trọng như là nguyên tắc bất
thành văn trong hát bội kết hợp hài ḥa giữa
nghệ thuật hát bội Việt và Hoa.
Trong lịch sử hát bội Việt Nam có thể nói
nghệ sĩ Thành Tôn, sanh năm 1913, là người đă
có trên 60 năm trong nghề hát bội, để lại
dấu ấn trong nghệ thuật hát bội Việt Nam.
Từ kép hát tỉnh lẻ Vĩnh Long, đơn thân
độc mă lên Sài G̣n gia nhập gánh Bầu Thắng ra
mắt khán giả lần đầu tiên với vai diễn
Châu Do; từ đó chững chạc đứng trên sân
khấu hát bội suốt trên nửa thế kỷ. Thành
Tôn là một điển h́nh cho nghệ thuật hát bội
Việt Nam từ lối vẽ mặt, y trang, điệu
bộ, ca diễn nhập vai một cách tự nhiên như
trời cho. Tới nay chưa ai bằng. Theo lời kể
th́ Ông không chỉ học cầm thương lên ngựa, ca
diễn, vẽ mặt mà c̣n phải học đánh
đờn, viết tuồng và đạo diễn hát
bội nữa.
* * *
Nói hát bội không
thể không nói đến “cầm chầu”.
Thuở xưa cái
trống chầu đặt ngay trước sân khấu.
Mỗi tiếng trống đánh lên đều mang một y
nghĩa khen hay chê, hoan nghinh khích lệ hay khiển trách,
quở phạt... nói lên giá trị về nghệ thuật.
Tiếng trống chầu coi đơn giản nhưng nó
là mệnh lệnh của viên chỉ huy, bởi theo đó
mà người coi nhiệt liệt hoan hô hay ḥ hét chê trách.
Chức sự cầm chầu là người am
tường nội dung, bài bản và nhứt là hiểu
biết nghệ thuật hát bội. Người cầm
chầu ăn mặc nghiêm chỉnh với áo thụng xanh,
khăn đen, ngồi trước hàng khán giả, gần
sân khấu để xem, nh́n thấu tận “cửa sanh”
cánh gà bên trái, chỗ đào kép ra; “cửa tử”cánh gà bên
phải, chỗ đi vô.
Trống chầu là loại trống to, sơn màu
đỏ, căng thẳng, tiếng kêu to để khán
giả ngồi xa có thể nghe theo dơi.
Tới giờ hát, chấp sự hai tay cầm hai dùi
trống quay mặt hướng về đ́nh thần “xá
thần” và chào khán giả. Quay mặt trở lại sân
khấu, ngồi xuống nghiêm trang cầm chầu.
- Khai chầu bằng 9 tiếng trống: 3 chập,
mỗi chập 3 tiếng, báo cho đào kép chuẩn bị.
- Mở màn bằng 6 tiếng trống: 2 chập,
mỗi chập 3 tiếng. Đào kép theo thứ tự
bước ra ở “cửa sanh”.
- Chầu khấu bằng 1 tiếng trống cho
đào kép “khấu bái” thần như lạy vua. Trống
kèn nổi lên, đào kep lần lượt xưng tên và chào
khán giả. Sau đó bước vào “cửa tử”.
Suốt buổi hát, chấp sự cầm chầu túc
trực chăm chú xem để khen thưởng. Đánh trên
mặt trống là khen, đánh trên b́a trống là chê và
phạt...
Đào kép nếu ai hết vai tuồng không ra nữa,
chấp sự cũng phải biết để dánh hai
tiếng trống chầu để giữ lại chào
từ biệt khán giả.
Lúc văn hát, nếu đêm mai c̣n hát tiếp th́ chấp
sự đánh 9 tiếng: 3 chập, mỗi chập 3
tiếng như lúc khai chầu. Nếu là đêm chót, ngày mai
không c̣n hát nữa, chấp sự chỉ đánh một
chầu 3 tiếng.
Ở miền Nam xưa mỗi làng thường có
một ngôi đ́nh thờ thần do nhà vua ban sắc phong.
Mỗi năm đ́nh làng có tổ chức cúng thần hai
lần vào mùa Xuân và mùa Thu gọi là cúng “kỳ yên”, cầu
cho thiên thời - địa lợi- nhơn ḥa.
Hát bội cúng đ́nh tức là cúng thành hoàng nên
được tổ chức rất trịnh trọng và
nghiêm trang nhứt là suất hát bội đầu tiên
gọi hát khai chầu (các xuất sau th́ chủ yếu là giúp
vui mà thôi)
Suất hát khai chầu thường diễn ra vào
giữa đêm giờ Tư (khoảng 1 giờ khuya) chờ lúc
nước dưới sông “đứng”, nghĩa là
nước sông hết “ṛng” bắt đầu “lớn”.
Giữa đêm là thời điểm trời
đất yên tĩnh. Nước lớn biểu thị
cho sự phát triển, phát tài.
Ban Hương Chức trong làng cử ra một vị
‘chấp sự” đứng ra làm lễ khai chầu,
người nầy phải là người hiền
đức, gia đ́nh trọn vẹn, hạnh phúc.
Lễ khai chầu cử hành trước bàn thờ
thần. Sau khi làm xong thủ tục cúng thần, ông
chấp sự, thường là ông hương cả, dùng
chiếc khăn điều (khăn đỏ) lau mặt
trống chầu 3 lần rồi lau 2 cái dùi trống 3
lần.
Hương Chức, dân chúng đứng quanh chờ
đợi hồi hộp cái giờ khai trống chầu.
Chấp sự bắt đầu khai chầu bằng
3 hồi trống liên thanh, tiếp theo ban nhạc lễ
trỗi lên ba hồi, chín chập.
Chấp sự hai tay cầm 2 d́u trống chấp
trước ngực, đứng thẳng người
nghiêm nghi chờ ban nhạc lễ chấm dứt; bèn
“thỉnh thần” ra xem hát. Lúc đó ban nhạc hát bội
bắt đầu trỗi lên tiếp bản nhạc
lễ.
Ông chấp sự đỡ 2 dùi trống quay về
khán giả chào mọi người, rồi quay vào sân
khấu chào đào kép và ngồi xuống trước cái
trống chầu để cầm chầu đêm hát.
Cầm chấu hát bội trở thành là người giám
khảo, bởi người ham mộ hát bội tŕnh
độ thưởng thức c̣n bị hạn chế,
nên cầm cầu vừa là danh dự vừa là nhiệm
vụ nặng nề. Cầm chầu vi vậy luôn chịu
búa ŕu khán giả. Thế mới có câu:
“Ở đời có bốn cai ngu
Làm mai, lănh nợ, gác cu, cầm
chầu”
* * *
Hát bội từ khi có mặt ở Việt Nam rất
được dân chúng ưa thích, từ thôn quê đến
thành thị, không chỉ người b́nh dân mà cả
đến người có học chữ Nho, sau nầy
chữ quốc ngữ, chữ Tây cũng thích hát bội.
Hát bội ở miền Trung phát triển cực
thịnh vào thế kỷ XIX đến cuối thời vua
Tự Đức th́ suy yếu. Đào Tấn mở trường
“Học Bộ Đ́nh” dạy nghệ thuật hát bội cho
mầm non góp phần vực dậy hát bội miền Trung,
đến cao điểm vào thời từ 1914 đến
1917. Sau khi Đào Tấn mất hát bội miền Trung suy tàn.(
Theo Đỗ Văn Rỡ)
Hát bội trong Gia Định phát triển cực
thịnh vào thời Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn
Gia Định. Sang thời Minh Mạng, sau vụ Lê Văn Khôi,
trường hát xưa của Lê Văn Duyệt bị
giải tán, các nghệ sĩ hát bội gốc binh lính
thời Lê Văn Duyệt phải ra trận, các ông nhưng
(thầy tuồng) bị cấm hoạt động.
Tiếp theo Nam Kỳ bị Pháp chiếm và hát bội
lưu lạc tản mác về làng bắt đầu hát
cương, hát không tuồng tích và chỉ c̣n hát trong các
đ́nh làng.
Hát bội ở miền Nam suy yếu đến
đầu thế kỷ XX, phục hồi trở lại
ở Sài G̣n với sự ra đời của hội
“Khuyến Lệ Cổ Ca” rồi sau nầy là
Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ .
Đến lúc cải lương, rồi phim ảnh xuất
hiện th́ hát bội đi vào thời suy tàn tới nay!
Thật đáng tiếc!
Nam
Sơn Trần Văn Chi
(26-2- 2009)
Sách tham khảo:
-Trần Trọng Kim, Việt Nam Sư Lược
-Phan
Khoang, Lịch sử Đàng Trong
-Trần
Văn Khải, Nghệ Thuật Sân Khấu Việt Nam
- Đỗ
Văn Rỡ, Địa chí Văn Hóa Thành Phố HCM, tập
III
- Quách
Tấn, Nước Non B́nh Định
-
Nguyễn Thị Minh Thái, Sân Khấu và Tôi
- Thái
Văn Kiểm, Cố Đô Huế.