Phần II – Gia
đình và học đường
BÀ RU CHÁU
”Trưa mùa hè, trời nắng chang
chang, gió im phăng phắc. Trong nhà, ngoài ngỏ, vẳng
vẻ, tĩnh mịch. Ở một chái bên, bà ôm cháu vào
lòng. Hai bà cháu nằm trên cái võng, đưa đi đưa
lại, tiếng kêu kẻo cà, kẻo kẹt, theo một
điệu”.
Mở
đầu bài: ”Bà ru cháu”tác giả
tả cảnh trưa hè ở quê nhà ngày xưa, một
cảnh êm đềm và gợi nhớ làm sao! Đọc lại cái cảnh
trưa hè ở quê chắc làm nhiều người trong
chúng ta bồi hồi nhớ lại cái thời thơ
ấu, đặc biệt đối với ai đã
từng sống trong hoàn cảnh ấy thời còn bé
nhỏ.
Trưa hè,
nắng chang chang, ngoài đường không một ngọn
gió, cây cối đứng im, ngoài ngỏ không một bóng người,
cái cảnh thật quen thuộc.
Hồi đó
ở nhà quê, trước nhà, người ta thường
để một lu nước, cho người qua
đường giải khát vào mùa nắng. Lỡ
đường khách dừng chân, uống một gáo
nước mưa, thì không gì đã cho bằng.
Hình ảnh cái lu
nước, đậy nắp cẩn thận, bên cạnh
có máng cái gáo dừa nhỏ, có cán, đặc chế
để uống nước ở nhà quê nay ít còn thấy
nữa !
Không biết ai
có sáng kiến đó, mà ở làng quê Lục Tỉnh đâu
đâu cũng có để lu nước trước nhà,
kiểu cách bố trí giống nhau.
Còn cái võng, có
thể nói rằng là vật dụng mà người Việt
mình nhà nào cũng có. Không biết nó phát sanh hồi nào, mà cái
võng gắn liền với đời sống chúng ta như
là cái gì cao
quý
vượt ra khỏi chức năng của nó là dùng
để nằm nghỉ lưng.
Chiếc võng
gắn liền với tuổi thơ, người già,
đàn ông, đàn bà và nhứt là các cô gái quê.
Cái cảm giác
nằm trong võng, đong đưa, đọc sách, ngâm
thơ, ru em... quả là kỳ diệu và không một ai không
ưa, không thích.
Ngày xưa, vua
quan ta cũng ưa võng: Vua thì nằm võng đào, quan thì
nằm võng có cáng được người khiêng, học
trò đỗ đạt thì ”võng anh đi
trước, võng nàng theo sau ...” Đi
trước mở đường cho cái “võng anh” hoặc “võng nàng”và nhứt
là “võng
quan phủ”thì có cả đoàn tùy tùng, hò hét
cho dân tránh ra. Lính đó trong Nam gọi là lính “nạt
đường”.
Võng cũng xông
pha theo quân Tây Sơn đánh giặc, tải thương,
hoặc đưa người bịnh đi ra tỉnh tìm
thầy thuốc ...
Võng
được cột vào hai cột nhà, dưới võng
thường được lót manh chiếu, miếng
đệm rách để tránh “hơi thổ”xông lên làm
ảnh hưởng sức khỏe người trên võng.
Có người
còn treo võng ngay trên giường ngủ của gia đình,
hoặc treo trên bộ ván cho tiện.
Nói qua về
vật liệu làm võng ở quê miền Nam ngày xưa.
Thuở xưa
võng bằng lác là loại võng bình dân, khá hơn là võng
bằng u du xài bền, và tốt nhứt là võng bằng
bố, vừa chắc vừa không có rệp.
Đầu võng
được làm tóm lại có lổ để xỏ khúc
tre gọi là “con găng”, con
găng máng vào dây, quấn ở cột nhà gọi là
giăng võng, ở Bắc gọi là bắt võng.
Khi đưa
võng, tiếng dây cọ xáïc vào cột nhà phát ra tiếng kêu
quen thuộc “kẻo kè,
kẻo kẹt”. Sau
này dùng võng nylon, nằm rất nóng, đong đưa không có
tiếng kêu, làm mất cái thú nằm võng!
Người
xưa mua võng hay đếm coi võng đan có nhiêu tau (mấy
sợi võng), và tránh con số kỵ, để dễ nuôi
con, nuôi cháu.
Mùa hè nóng
nực, trong Nam thường giăng võng ngoài vườn,
dưới bóng cây, ngủ một giấc thì tuyệt không
gì bằng.
Quốc Văn
Giáo Khoa Thư tả hai bà cháu nằm võng ở bên cái chái
nhà, vừa mát vừa nhìn được cảnh vật bên
ngoài rất phổ biến ở nơi thôn quê.
Cái nhà xưa
ở Lục Tỉnh đa phần là nhà lá, cất theo hình
chữ Đinh; nhà trên liền nhà dưới. Nhà nào cũng
có hiên trước, hiên sau thậm chí hiên hai bên tả
-hữu; có công dụng che mưa, nắng, không tạc vào
nhà, và mái hiên hai bên cũng dùng để chứa nông cụ,
dụng cụ gia đình như lu, khạp, cối xay,
cối giã gạo, cối xay bột, cày bừa . . .
Quốc Văn
Giáo Khoa Thư viết tiếp theo: “Bà cất tiếng hát, bà ru :
Cái ngủ mầy ngủ cho lâu,
Mẹ
mầy đi cấy ruộng sâu chưa về.
Cháu
nghe êm tai, ra chừng thiu thiu ngủ, mà bà cũng ra dáng lim
dim hai con mắt ...
Ừ,
cái ngủ mầy ngủ cho say,
Mẹ
mầy vất vả chân tay tối ngày”.
Không ai dạy
ai, thế mà các bà mẹ Việt mình xưa ai cũng
thuộc rất nhiều bài hát ru con. Các bà mẹ hát theo
tiếng “kẻo kẹt”chiếc
võng, hết câu nầy tới câu khác, có vần có
điệu lên xuống ...
như là nghệ nhân.
Trẻ con
hồi bé đã có bộ nhớ trong đầu nên bắt
được tiếng hát, tiếng nói của
người lớn, khi nghe tiếng ru thì im lặng, lim dim,
nhắm mắt, thả hồn dần vào giấc ngủ.
Ở Mỹ, nay
thấy các bà mẹ trẻ ru con bằng tiếng nhạc ,
loại nhạc nhẹ, phát ra từ cái cassette để
trên đầu giường các đứa bé.
Xin nhắc
lại mấy câu hát ru con xứ Đồng Nai -Sài Gòn-
Lục Tỉnh ngày xưa:
-Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai
về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Tới
đây xứ sở lạ lùng,
Con
chim kêu cũng sợ, con cá vẩy vùng phải kinh.
- Ghe anh đỏ mũi, trảng
lườn,
Ở
trên Gia Định xuống vườn thăm em.
- Gió đưa, gió đẩy
về rẫy ăn cồng,
Về
sông ăn cá, về giồng ăn dưa.
-Ví dầu cầu ván đóng
đinh,
Cầu
tre lắc lẻo, gập ghềnh khó đi.
-Đố
anh con rít mấy chân,
Cầu
Ô (tàu u) mấy nhịp, chợ Dinh mấy người.
Chợ
Dinh bán áo con trai,
Chợ
Trong bán chỉ, chợ Ngoài bán kim (tơ).
-Bìm
bịp kêu nước lớn anh ơi,
Buốn
bán không lời, chèo chống mỏi mê.
-Đèn treo cột đáy
Nước
chảy đèn rung.
Anh
thương em thắm thiết vô cùng,
Biết
cha với mẹ bằng lòng hay không?
-Mẹ mong gả thiếp về
vườn
Ăn
bông bí luộc , dưa hường nấu canh !
-Lập vườn thì phải
khai mươn
Làm
trai hai vợ phải thương cho đồng.
-Anh
đi chở gạo Gò Công
Về
vàm Bao Ngược gió giông đứt buồm !.
Những câu hát
ru em miền Nam thường theo thơ lục bát, nhưng
cũng có lúc biến thể như điệu hò
đối đáp Lục Tỉnh.
Ngoài nội dung
nói lên tình trai gái lứa đôi; hát ru còn nói lên nổi cơ
cực của người dân và nhứt là thân phận
phụ nữ bấy giờ.
Người
phụ nữ, các bà mẹ Việt Nam ngoài việc sanh con
nối dòng cho chồng, còn phải lo mọi việc cơm
nước, và may vá cho gia đình.
Việc
đồng án cũng có mặt người phụ nữ
nữa. Họ làm một số công việc nhẹ hơn
đàn ông; nào là làm cỏ. cấy lúa, gặt lúa bên cạnh
người đàn ông, một nắng hai sương.
Cái cảnh
người phụ nữ cấy lúa, gặt lúa ngoài
đồng luôn là hình ảnh thường được
thấy mô tả trong sách, trong truyện, trong tranh.
Ở Lục
Tỉnh, trừ vùng ngập nước Đồng Tháp, các
nơi khác, ở đâu cũng dùng kỹ thuật cấy.
Trong Nam không ai gọi là thợ cấy mà kêu là công cấy,
công mạ, công cày...
Cấy là giai
đoạn đưa cây mạ xuống ruộng đã được
cày bừa xong. Bằng tay mặt, người ta dùng cây
nọc chọt lỗ ; tay trái tét mấy tép mạ cấm
xuống !
Tùy theo giống
lúa, người ta cấy dày hay thưa, bắt nhẻ hay
bắt to. Lúa sớm thì bắt to, cấy dày; lúa mùa thì
bắt nhẻ, cấy thưa.
Cây nọc có hai
phần: phần thân nọc giống
như trái cái bắp chuối, hình bát giác, phần
dưới nhọn, làm bằng gỗ, phần cán nọc
làm bằng loại cây nhẹ như cây quau, đâm ngang thân
trên nọc như cây thập giá.
Người công
cấy giữ gìn cây nọc rất kỷ, ít khi ai cho
mượn. Cấy xong rửa sạch người ta
vắt sau lưng đi về nhà.
Cái cảnh bà
giữ cháu ở nhà để mẹ đi cấy đi làm
ruộng là việc bình thường trong sanh hoạt ngày mùa
ở nông thôn.
Hồi đó
không có sữa bò, người ta cho trẻ con uống
nước cơm, nước cháo pha đường, có bà
đưa cháu đi xin ”bú thép”, khi
mẹ vắng nhà.
Em tôi khát sữa bú tay,
Ai
cho bú thép dạ này mang ơn.
Nay đọc
lại bài “Bà ru cháu”nhớ
lại cái cảnh quê mình ngày xưa quá ! Thuở đó, dân
mình ai cũng nghèo, sống lay lất qua ngày, đùm bọc
nhau... cứ thế mà trưởng thành
. . .
Trong cái cảnh
chung như thế, không ai thấy khổ cả ! Nên
những hình ảnh mái tranh, con trâu, cái cày, bà mẹ quê, là
cái gì nên thơ, dễ thương để lại trong
tâm hồn chúng ta mãi mãi về sau.
Ngày nay
đời sống người mình có khá hơn, không còn cái
cảnh đưa cháu, đưa con đi bú thép, không còn
cảnh bà ru cháu, để mẹ đi cấy đi cày
nữa.
Cái ngủ mày ngủ cho lâu,
Mẹ
mầy đi cấy ruộng sâu chưa về...
Phải chăng
nay thuộc về quá khứ ?
Theo thời gian,
cái hay cái đẹp của quê mình chỉ còn lại trong
thơ, trong nhạc.
Nhưng dầu
sao đi nữa, có còn hơn không?