CHIẾC NÓN LÁ TRONG ĐỜI SỐNG

VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

Trần Văn Chi

“Trời mưa th́ mặc trời mưa
Em không có nón th́ chừa em ra”

(Ca dao)

Cùng với chiếc áo bà ba, chiếc “nón lá” đă theo chân người phụ nữ miệt quê miệt vườn, cùng với chiếc xuồng ba lá, bồng bềnh theo con nước lớn nước ṛng, dầm dăi nắng mưa sớm chiều... Từ lâu chiếc nón lá đă trở thành một bộ phận không thể thiếu trong trang phục của người phụ nữ miền Nam nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung.

Ngày nay chiếc nón là h́nh ảnh quen thuộc và gần gũi với mọi người, nhưng có ai biết đâu để có cái nón lá đội đầu che mưa che nắng, và để làm duyên nữa, ngày xưa tổ tiên chúng ta đổ bao tâm sức để nghĩ ra và làm nên?

* * *

Chiếc nón có mặt ở xứ ḿnh từ khi nào th́ không ai biết? Nhưng từ xưa cái nón đă xuất hiện trong thơ cổ, không biết tác giả là ai.

“Dáng tṛn vành vạnh vốn không hư,
Che chở bao la khắp bốn bờ.
Khi để (đội) tưởng nên dù với tán,
Khi ra th́ nhạt (lạt) nắng cùng mưa.
Che đầu bao quản ḷng tư túi,
Giúp chúa nào quen nghĩa sớm trưa.
Ṿi vọi ngồi trên ngôi thượng đỉnh,
Ai ai lớn nhỏ đội ơn nhờ.”

(Thơ cổ)

Nón như vậy đă có mặt lâu đời ở nước ḿnh rồi. Nón là là “Đồ dùng để đội đầu, h́nh chóp, tṛn, thường lợp bằng lá màu trắng”.

Từ khi có mặt với chức năng là “cái nón”, th́ chiếc nón đă theo chân người nông phu ra đồng, theo người phụ nữ đi sớm về trưa, được bà dùng để quạt đưa cháu vào giấc ngủ, được các bà mẹ vỗ về đội vào đầu và nắm tay d́u con đến trường.

Nón cùng với người lính thú xông pha ngoài chiến trận, nón theo tài tử giai nhân đi trẩy hội, nón theo cung phi vào cung cấm, nón theo các nàng công chúa, các bà hoàng đi chùa cầu duyên cầu tự.

Nón cũng được các bà mẹ sục sùi nước mắt đặt nhẹ lên đầu người con gái thương yêu trước khi lên xe hoa về nhà chồng...

Chiếc nón c̣n có mặt trong sách vở thi ca, qua câu ḥ tiếng hát của người b́nh dân để ngợi ca t́nh yêu trai gái... và chiếc nón thực sự trở thành một phần trong đời sống vô cùng đẹp và lăng mạn của người ḿnh.

Nhiều loại nón ngày xưa, nay không c̣n được sử dụng và mai một.

Có loại nón được cách tân cho hạp với thời đại và thị hiếu thẩm mỹ của con người, làm cho chiếc nón vượt lên khỏi chức năng “che mưa che nắng”, trở thành đồ trang sức, làm duyên cho người phụ nữ. Có thể nói không sợ quá lời rằng: không có dân tộc nào có chiếc nón, như chiếc “nón lá” gắn bó, gần gũi với con người như dân tộc Việt Nam ḿnh!

Nói về tên gọi chiếc nón th́ ở nước ḿnh phong phú lắm.

Theo thông thường, chiếc nón khi ra đời được đặt tên theo vật liệu làm nên nó. Như nón lá, nón rơm, nón đệm, nón lá buông, nón dứa, nón gơ, nón quai thao, nón móp, nón bài thơ... Chiếc nón cũng được đặt tên theo h́nh dạng, như nón chóp, nón dấu, nón mê, nón mẻ, nón thúng, nón chân tượng giống chân voi...

-“Tiếc v́ nón lá quai mây,
Nên em chẳng dám trao tay chàng cầm”.
-“ Ông già ông đội nón c̣i,
Ông ve con nít ông Trời dánh ông.”

(Ca dao)

Nón cũng c̣n được đặt tên theo địa phương sản xuất, như nón Nghệ, nón Huế, nón Tây Ninh, nón Tân Hiệp (Mỹ tho)...

“Chợ Dinh bán áo con trai,
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.”

(Ca dao Huế)

Nón chuyên dùng th́ có tên như “nón tu lờ” của các nhà sư, “nón ngựa” dùng cỡi ngựa, “nón cụ”, nón quai thao, dành cho cô dâu, “nón dấu” dành cho lính thú đời xưa,...

(Cùng có nhiệm vụ để “đội chụp trên đầu”, nhưng không làm bằng lá th́ gọi là cái mũ. Như mũ nan, mũ ni, mũ bạc, mũ cánh chuồn, mũ cánh tiên, mũ tai bèo, mũ bê rê, mũ cối,...)

“Ngang lưng th́ thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài.”

Chiếc nón xuất hiện ở nước ḿnh đầu tiên ra sao? - Không ai biết.

Bùi Xuân Phát chỉ biết lúc cái nón Bắc xuất hiện ở phố cổ Hà Nội cách đây 500 năm. Nón Bắc bấy giờ sản xuất ở làng quê với cái tên là làng Chuông, Thanh Oai tỉnh Hà Tây. Rồi chiếc nón làng Chuông được đem ra bán cho người Hà Hội. Tại phố cổ Hà Nội, nơi phố phường chật hẹp, người đông đúc, có khoảng 100 con đường nhỏ gọi là Phố, với bao ngơ ngách chằng chịt. Nhà mặt tiền dành buôn bán, hẹp thắp và tối phát triển theo chiều sâu, được ngăn làm nơi ăn ở sanh hoạt gia đ́nh, vừa buôn bán.

Nón Bắc làng Chuông là mặt hàng đặc trưng ở Bắc lúc bấy giờ, bày bán ở phố Hàng Nón, cùng với phố Hàng Điếu, hàng Đồng, Hàng Đào, Hàng Buồm, Hàng Giầy, Hàng Chiếu, Hàng Than,... làm nên Hà Nội “băm sáu phố phường”.

(Hà Nội 36 phố phường nay đă thay đổi. Hàng Điếu không c̣n bán điếu mà bán chè thập cẩm, Hàng Gà bây giờ không bán gà mà bán phở ḅ; Hàng Than nay bán quần áo; Hàng Giày nay bán khăn. Và Hàng Nón nay không c̣n bán nón nữa!)

Nón làng Chuông “mang tánh lịch sử”, ngày nay được người Hà Nội làm sống lại qua/trong các lễ hội, được biết/được nhắc tới như là chiếc nón tiêu biểu cho Hà Hội.

Tới chiếc cái nón Nghệ, rộng trên 80cm, sâu 10cm, đan bằng những sợi tre chuốt nhỏ, to và nặng, có đôi quai thao dài 1m50 làm bằng 8 sợi tơ, hai đầu có một quả găng... Quai thao xưa nổi tiếng thời thế kỷ 17, được làm ra ở làng Triều Khúc, Thanh Tŕ, c̣n gọi là làng Đơ Thao. Làng Đơ Thao là làng nghề làm quai nón nổi tiếng ngày xưa, có thờ tượng tổ sư của nghề dệt quai thao, tới nay c̣n được dân làng tự hào.

Cái nón từ lúc xuất hiện, đi liền với đôi quai được làm bằng dây, mây, vải,... vừa để giữ chiếc nón, vừa để điểm tô cho người đội thêm duyên, thêm dáng, thêm sang trọng và quí phái theo cái nh́n thẩm mỹ bấy giờ.

-“Nón em nón bạc quai thao,
Th́ em mới dám trao chàng cầm tay.”
-“Tṛng trành như nón không quai,
Như thuyền không lái như ai không chồng!”

(Ca dao)

Theo bước chân Nam tiến, chiếc nón vào xứ đàng Trong với tên gọi như nón Huế, nón bài thơ, nón B́nh Định...

Chiếc nón giờ đây có dáng vẻ nhẹ nhàng, mang theo trong nó cái “duyên ngầm” của người con gái Huế đội “nón nghiêng che” lăng mạn.

Chiếc nón Triều Sơn huyện Hương Trà, nón G̣ Găng, nón bài thơ... lộng bên trong bài thơ, h́nh ảnh cầu Tràng Tiền, chùa Linh Mụ, núi Ngự, sông Hương:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy,
Sông chảy vào ḷng nên Huế rất sâu.”

(Câu ḥ Huế)

Nón Huế nh́n soi qua ánh nắng mặt trời, trông như là bức tranh thủy mạc, măi măi là là cái ǵ đặc trưng và “rặt Huế” không sao tả hết được!

-“Chợ Dinh bán áo con trai,
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.”
-“Nón này là nón u mê,
Nón này là nón đi về che chung.”

(Ca dao)

Chiếc nón càng về sau này càng xa rời “nhiệm vụ che nắng che mưa”, trở thành cái để làm duyên của thiếu nữ và cũng được dùng để bày tỏ t́nh trai gái, t́nh nghĩa vợ chồng hay ẩn dụ điều ǵ đó...

-“Nón mới gột nước trời mưa,
Anh ham vợ đẹp th́ thưa việc làm.”
-“Trời mưa th́ mặc trời mưa,
Chồng tôi đi bừa đă có nón che.”

(Ca dao)

Vào đến miền Nam, chiếc nón được gọi nôm na là “nón lá buông”. Nón làm bằng lá buông, với tre, chỉ sợi... vật liệu có sẵn và nhiều ở Trảng Bàng Tây Ninh, Tân Hiệp Mỹ Tho... Chiếc nón lá miền Nam kiểu dáng nhẹ nhàng, rẻ tiền, rất ư là đời thường nên thực dụng, nhưng vẫn giữ cái dáng vẻ “duyên” của người con gái miệt vườn, sông nước!

Nón Tây Ninh, Tân Hiệp từ lâu luôn t́m cách đáp ứng nhu cầu và thị hiếu khách hàng nên sản xuất làm 3 hạng nón: hạng nón thường, nón dày, nón lỡ.

Việc tổ chức làm nón ở Tây Ninh qui mô, khoa học, sản xuất chia ra ba công đoạn để giảm giá thành, như: làm khung tre, lựa lá và chằm nón.

Khung nón làm bằng tre, loại tre cật Tây Ninh, khung có h́nh chóp, kích cỡ bằng chiếc nón. Khung và bộ vành với 16 chiếc ṿng lớn nhỏ được chuốt nhỏ nhắn, tṛn và khéo, cân xứng, nghệ thuật và nhẹ nhàng.

Lá buông có nhiều ở địa phương, là nguyên liệu chánh làm nên cái nón. Lá phải chọn lá già, lá mật cật, đem luộc chín, vuốt thẳng, phơi/sấy và ủ khô sao cho lá c̣n giữ màu trắng tự nhiên vẫn xanh-trắng mịn màng, không bị ngả màu đen hay vàng. Lá phải cán hay vuốt thẳng, sao cho sau khi lợp, sau khi chằm không bị co bị dúm lại.

Giai đoạn cuối cùng là chằm nón bằng những sợi chỉ trong suốt dọc theo nan tre. Chính giữa hai lớp lá được đặt vào các hoa văn, hoặc câu thơ cắt bằng giấy, có khi là h́nh cầu Tràng Tiền, núi Ngự, Sông Hương...

Người thợ nón Tây Ninh mỗi ngày làm ra từ 2 đến 4 cái nón tùy theo hàng. Những chiếc nón ra ḷ ở đây trông “rất Huế” nhưng không phải Huế, do bàn tay những nghệ nhân Tây Ninh khéo léo, bằng những đường kim mũi chỉ sắc sảo. Đó là những người thợ nón bước vào nghề từ lúc c̣n bé 5, 6 tuổi đến già, yêu cái nghề làm nón và cả đời làm nón Huế dầu chưa có một lần bước chân đến Huế! Nên có hai câu hát “Nón rất Huế nhưng đời không phải Huế/Mà chỉ để làm đẹp nón ai nghiêng...”

*
* *

Chiếc nón từ khi có mặt, đă phục vụ cho người thường, cho quan chức, cho cả người chết. Nón c̣n được làm để dâng cho thần linh trong đ́nh chùa đền miếu miễu... phục vụ cho tín ngưỡng con người.

Kể sao xiết những chiếc nón của người Việt ḿnh xưa nay. Bởi:

C̣n những chiếc nón xuất hiện nơi thị thành đèn hoa đô hội: ngoài chiếc nón của thầy thông thầy kư mắc tiền đội hờ cho có, c̣n chiếc nón của bác xích lô, người phu quét đường, người “cu li” bốc vác... dùng để đội, để chắn gió mồi thuốc, để che mặt ngủ trưa hay chờ khách!

C̣n những chiếc nón ra đồng, chiếc nón dùng để múc nước rửa mặt, múc nước uống tạm bên sông, chiếc nón của bà mẹ quê tạm dùng đựng mớ rau tập tàng mới hái được đâu đó để dành nấu canh cho chồng cho con ăn!

Đó là những chiếc nón của những mảnh đời tăm tối nhưng đáng trân trọng. Sao không?

Dầu chiếc nón lá làm ra không dành riêng cho phái nữ, nhưng nói đến cái nón lá xưa nay người ḿnh có thói quen liên tưởng đến người phụ nữ “nón nghiêng che” đầy ấn tượng!

“Ra đường nghiêng nón cười cười,

Như hoa mới nở, như người trong tranh”

(Ca dao)

Chiếc nón Việt Nam v́ vậy là cái ǵ kỳ diệu và thật sự trở thành một phần trong đời sống văn hóa của chúng ta.

2008-03-09 04:41:28

Nguồn: http://www.vantuyen.net