Con Trâu Già
VITA
Trưa. Nắng chiếu sao vàng lấp-lánh. Sinh đi
dựa lũy tre già rậm-rạp, bỗng nghe trong nhà ai,
nổi lên tiếng dạy đọc vần ngược,
tiếp theo tiếng nhại ăn rập của trẻ
con, giọng lê-thê đýu-đều :
-Ac ...(A ...xê ...ac)
-Ac ...
-Ach ...(A ...xê ...hắc ...ách)
-Ach ...
-Âm ...(Ớ ...mờ ...âm)
-Âm ...
Thản-nhiên, Sinh thấy buồn rời-rợi. Chàng
hồi nhớ nghề xưa, cả người lẫn
vật. Trong những cái bóng xa xăm, chàng phân-biệt ông
giáo Ba rành-rạnh, dạy lớp dự-bị cho một
trường tư.
Dữ ! cho tới bây giờ, đã ngoài sáu năm,
hình-dáng ông giáo Ba, Sinh chưa quên mảy-mún Sinh tưởng mình còn đang
âm-thầm chứng kiến một buổi dạy của
thầy vừa mới hôm qua
Vào một buổi sáng, trường vừa mở
cửa cái, một đám trẻ, gái lẫn trai,
ồ-ạt tràn vào sân, chen, đẩy, gây nhau ó dậy.
Chúng tựu-họp từng nhóm, đông như kiến
cỏ, xí-xô, xí-xào không dứt. Mới xa cách trong khoảng
một đêm ngắn-ngủi vừa tái-ngộ, chẳng
rõ chúng đào, xới, bươi, móc ở đâu những
mẫu chuyện linh-hoạt, hứng-thú để kể
lại cho nhau nghe, thao-thao bất-tuyệt. Thật học
trò con, lon-xon lắm điều và tràn-trề tâm-sự ...
Bỗng một hồi trống vang dội. Chúng ùn-ùn
mang tép da, xách nón chạy a vào lớp, lộn xộn
ồn-ào, tựa ong vỡ ổ. Có đứa hình như
chưa dứt tự-tình, chân bước, miệng còn ngoái
ra sau, chót-chét. Chờ chúng vào hết, thầy Ba mới
nhịp thước xuống bàn, kêu-gào trật-tự :
-Thôi ! im, tới giờ học rồi !.
Với thân-hình ròm-rõi, lưng còng bởi chở
khẩm mười sáu năm nghề gõ đầu trẻ,
mặt vuông, má thỏn lòi xương, mũi đeo
kiếng trắng gọng sừng, thầy Ba chưa
đầy ba mươi lăm tuổi, mà mớ tóc xanh
đã nhuộm tang-thương để lộ cái sọ
trán cao bóng lộn. Tánh vui-vẻ, đối với chủ
trường, thầy trung-hậu ; với đồng-nghiệp,
thầy ra chiều ôn-hòa ; với học trò, thầy
dễ-dãi, khoan-dung. Nhưng coi chừng ! đứa nào làm
quá bụng thầy, cái trán trợt bỗng phát đỏ
rần, thì sẽ biết. Ông Tề nổi xung gan, quơi
thiết-bảng khện vào trôn đổ lửa, rát
thấy ông cha mồ-tổ ; chúng thường nói hành
thầy như thế.
Tánh-chất ấm hay lạnh, thấp hay cao gì cũng
do nơi màu sắc cái trán. Cho nên, nội cái đầu sói
của thầy Ba đủ gieo uy-tín vào tâm-hồn đám
trẻ.
-Thôi ! Im ! tới giờ học rồi !...
Tuy-nhiên tiếng thì-thầm lan ra mãi. Thầy Ba rút cây
bút chì xanh đỏ ở túi trên, lật sổ điểm
tên, ghi hiện diện. Trong lúc ấy mút phía dưới,
chỗ mà thầy gọi là ''xóm trời ơi đất hỡi''
của bọn ''bất-lương'', mấy cậu
lười nhớt, liến-thoắng độc, đã
mười một tuổi đầu, còn mài đũng
quần trên bàn lớp dự bị, liếc thầy,
đoạn to nhỏ với nhau :
-Tao đố mầy, bửa nay Tôn-ngộ-Không
tảo-thanh miệt nào?
-Suỵt ! Ông nhìn mặt kia kìa ! Có đường bố
xóm tụi mình đa!
Bỏ mẹ cả đám!
Thầy Ba cầm cây viết kéo ngòng-ngoèo từ
đầu sổ tới cuối rồi đảo
lộn. Hơn chin mươi bảy cặp mắt
trân-trối đuổi theo. Bỗng cây ''toàn-tâm-đinh'' (1)
can-hệ ngừng. Thầy Ba kêu gọn-lỏn :
-Trảo!
Thằng Trảo dân ''bất-lương'' núp trong
kẹt nãy giờ, lui-cui thắt chiếc ghe hai buồm
bằng giấy để cho chạy vát trên đầu
thằng Be bỗng giật-mình, xám mặt, le lưỡi
dài thượt, rút chân khỏi bàn rất khó nhọc,
vừa đi vừa mở tập, lâm-râm tụng A-di-đà
...
Trảo đem trình cuốn tập một trăm trang,
bìa rách tét-bét, miếng mất, miếng dính tòn-ten, dơ-dáy,
chỉ còn vỏn-vẹn sáu trang cuốn góc.
Thầy Ba nghiêm-nghị hỏi :
-Mấy trang kia đâu, ông trời con? Nuốt cả
rồi à?
Thấy nó xẻn-lẻn, thầy tiếp:
-Học-hành thế nầy, ông Thánh chữ cũng
phải chạy te.Thôi được, trả bài thử
nghe chơi .
Thằng Trảo đứng chết trân. Thầy
nhắc :
-Con cò ...
-Nó chụp giựt, vuốt đuôi :
-...cái ''quạt'', cái nông...
Cả lớp cười rần. Thầy Ba
trợn-dộc, gây :
-Cái vạc chớ cái quạt gì? Nói lại!
Trảo cố-gắng đọc :
-Con cò, cái a ..., quạt ...
Cả lớp lại cười ó dậy. Trảo
cũng lỏn-lẻn cười.
-Thằng chết bầm ! Nè coi cho kỹ đây!...
Rồi thầy Ba chằng nhẹ miệng, nhếch
môi trên lòi răng, đưa môi dưới lên, thổi
một hơi vù-vù, đọc ''vạc''.
Thằng Trảo nhìn trân-trối, chu miệng nhại:
-''Quờ-ạc''
Mẹ ! Ý chừng thằng nầy muốn bán trà
Huế hay tập chầu rìa sao mà quạt, quạt mãi!
Cả lớp lại rú lên, bật nghiêng, bật
ngửa.
Thầy Ba tức mình, giá cây thước toan
đập. Thằng Trảo khiếp-vía, né, đỡ,
y-hệt võ-sĩ trên đài. Trông cái đầu hớt
trọc chừa chóp kiểu Ăng-lê, bản mặt
bơ-bơ, môi đầy mực tím, quần đùi
rượn ống, áo sơ-mi nhét thụng-thịu, gài
bắt-quàng; chân lổng-khổng, nhúc-nhích lia, tay khi khoanh,
khi buông xụi, trơ như Phật-tổ cũng phải
bật cười...
Thầy Ba bền-chí, gắt-gỏng :
-Nói lại, con bò!
Trảo cóm-róm, mắt ngó chừng cây thước,
miệng tía-lia :
-Con ''bò'', cái a ''quạt''...
Cả lớp lại đâp bàn, hò-hét vang như
sấm.
-A, hết quạt rồi tới bò ! Muốn bò, tôi cho
anh bò!
Thầy Ba liền nhảy xuống, nắm cứng
tay thằng Trảo, vừa khện vào đít nó
liên-tiếp, vừa nhịp miệng :
-Bò ...bò ...bò ...cho anh bò!...
làm thằng bé khốn-nạn nhăn-nhó, hai tay vò lia
chỗ đau. Và muốn lớp khỏi ồn-ào, thầy
nói :
-Thôi được. Cứ đọc tiếp đi!
Thằng Trảo ngước lên trần, ngó xuống
gạch, trán nhíu lại như một học-giả tìm
nhớ một chữ dễ-dàng dùng cho đúng nghĩa,
đoạn lấy chân thọc về phía sau, cố-ý
nhờ anh em nhắc hộ. Nhưng đoái nhìn cái trán
đỏ rần đẫm mồ-hôi hột, chúng sợ,
im mồm, báo-hại thằng Trảo, quét chân không, khều
một hồi lâu, vô-hiệu-quả.
-Tại sao anh không học bài ? Nói mau!
-Thưa, tuần trước thầy gọi con
một lần rồi, tuần nầy con tưởng...
Thầy Ba đâm khùng, nghẹn-ngào. Thầy
cười gằn :
-Vậy hễ liệu chừng không kêu, anh không
học à? Học mà cũng tính già tính non ! Thật rầu
lắm, Trảo ơi là Trảo! Tôi mắc anh bằng
mắc vợ con!...Thầy Ba cầm cái tập sáu trang
lật. Tới trang chót, thầy vùng rú lên, kinh-ngạc.
-Trời mẹ ơi! Hèn gì...hèn gì...
Rồi thầy đuổi nó về chỗ, ấn
một quả trứng vịt vào sổ cái, chua vào
khoản nóc-hờ: làm biếng. Thầy giữ tập lại
để ra giờ trình ông đốc.
Thì ra, thằng Trảo đã chép lại bài hát
điệu ''cô lái đò mơ'' cảa mấy bác bán
dương giấy, phát làm quảng cáo:
''Này nầy Nguyệt Nga, em xít gần đây ...
Vì đời Kiệm ưa, theo lối đầm tây,
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . .
Không chồngbồ-hố, hẩu-len lụ-phò...''
Thầy Ba ê càng xóm ''trời ơi đất hỡi''
để chúng yên vui, kêu mấy trò khác. Phần đông
trả bài xuôi rót. Nhìn
đồng hồ đã quá nửa giờ, thầy xếp
cuốn sổ, cho bài mới. Mấy đứa ham học
còn đọng lại, lộ vẻ bất-mãn, nhất là
con gái. Thầy Ba hiểu, nhưng làm thế nào với ngót
một trăm cái đầu loi-ngoi tựa cá bóng-kèo. Giàu
kinh-nghiệm tới đâu, rành cách dạy-dỗ tới
đâu, cũng phải co tay ! Trong một xã-hội
mục-nát, vụng-về tổ-chức, một khi
người ta định lợi-dụng cái nghề cao quí
để trở nên một bác lái buôn trí-óc, khoác chiếc áo
thương đời, nền giáo-huấn
thấm-nhuần ý-nghĩa nhân-đạo lại biến
thành mục-đích bóc-lột, thủ-lợi. Trẻ con
học được hay không, mặc! miễn đóng
tiền sòng phẳng là tốt. Thầy dạy xuể hay
không, chả cần, miễn lãnh rẻ là hay . Xưa nay có
cha mẹ nào mỗi khi mắng con biếng-nhác lại lôi
ông giám-đốc ra mà đổ tội, phiền hà ?
Những viên chức khác, một khi rời khỏi sở
ra về yên trí, trái lại, ông giáo - nhất là ở
trường tư - phải tiếp-tục cầm bút cho chạy
mãi trên tờ giấy. Thảo nào hơn một cô gái,
sợ lây cực, đã chê có chồng thầy giáo. Ngày hao
hơi tổn tiếng, đêm thức khuya-khoắt
chấm bài, đổi bát cơm bằng máu và mồ-hôi,
thân ròm-rõ, nhưng trong số thâu ba nghìn mỗi tháng,
thầy Ba, cũng như bao nhiêu đồng nghiệp khác,
chỉ ngửa tay lãnh độ tám trăm. Số còn
dư, kẻ ngồi không bật ghế hai chân, nuốt
trụm. Ăn trên đầu trên cổ ngươì ta mà
hễ mỗi lần mất một hai ông học trò,
lại chắt lưỡi hít hà, than dài thở vắn!
Lật bật, tháng nào như tháng nấy, thím giáo Ba,
đầu tắt mặt tối, chạy sấp chạy
ngửa, vất-vả trăm bề. Bồi đông,
bổ tây, thím quơ-quào giỏi lắm mới khỏi
đói. Trông vợ và bốn đứa con ốm teo, mét
chằng bởi thiếu vật thực, thầy rất
đau lòng. Bâng-khuâng thầy nghĩ nỗi nọ
đường kia... Thầy nhớ hồi nào
trường còn nghèo, ông chủ trả lương từ
giọt, thầy ôm bụng chịu, không nỡ bỏ sang
trường khác, với món tiền rất hậu. Cho
tới ngày nay, trường sung-túc, ho, giả-vờ quên
thuở xưa kia...Bãi trường không lương,
sống cách nào tùy thích, rủi bệnh trong vòng một tháng,
cạy gạch mà nuốt và hơn ,nữa, mất cả
chỗ làm. Người ta cố-ý cho mình chút-đỉnh
đỡ sống để phụng-sự và để
mình càng thiếu- hụt, càng dễ bề sai khiến.
Nhân-nghĩa gì ? Liệu mình dễ xài, họ dùng, trái
lại, họ thôi mình, đem người mới vào ăn
rẻ hơn, cái lối hết săn giết chó, hết
cày giết trâu, thầy Ba không lạ nữa. Rõ-ràng thầy
đưa lưng trâu già bừa, trục cho họ,
chẳng quản nắng mưa, nhưng tới kỳ
gặt-hái, nhơi toàn rơm rạ. Đến một
cọng lúa tiêm, một hạt thóc rơi, họ cũng
tiếc, buộc dàm.
Bấy giờ, Thầy Ba nhận thấy hy-sinh,
tận tụy của mình trong khoảng thời gian dài
dằng-dặt chỉ là một lầm-lạc ngu-xuẩn
của đời tôi mọi mà thôi. Thầy Ba tỉnh
ngộ. Thầy quyết không để thiệt-thòi
quyền-lợi nữa.
Một hôm, thầy Ba triệu-tập tất cả
đồng-nghiệp mình đoạn thảo một lá
đơn kêu nài đưa lên ông chủ. Sau một
tuần-lễ kì-kèo, đắn-đo, ông chủ
nhượng-bộ trước sự đoàn-kết
của anh em do thầy Ba hướng-dẫn. Ông
căm-tức thầy lắm, nhưng cũng phải
buộc lòng tăng phụ-cấp cho nhân-viên nam, nữ. Tuy
số tiền không thấm-thía vào đâu đối với
giá sinh-hoạt đắt-đỏ, thầy Ba trong thâm-tâm,
rất hài lòng. Ít nữa trong đời thầy, một
cuộc đời hiền-lành, nhẫn-nại, thầy
cũng đã cho ông chủ thấy rằng mình không phải
con vật hy-sinh vô-lối
*
*
*
Kỳ tựu-trường năm sau, Sinh đi ngang
qua lớp dự-bị, chàng ngạc-nhiên không thấy
dạng thầy giáo Ba nữa, chỉ thấy một
nạn-nhân khác còn trẻ-trung, do ông chủ vừa chài
được. Cũng như thầy Ba năm xưa, vì
thí-sinh của vi-trùng lao, đang giảng bài, mồ-hôi
ướt dầm cả áo. Sinh hỏi đon tin-tức
chung-quanh. Người thì bảo thầy Ba cáo-bệnh xin
thôi, dắt vợ con về Rạch-Miễu; người
thì cho thầy Ba bán nước mía ở miệt Bình-tây :
người lại nói thầy Ba nặng tình non
nước, đã quyết một đi không trở
lại. Nhưng chẳng một ai biết chắc-chắn
nguyên-nhân sự vắng mặt vĩnh-viễn nơi
trường của thầy. Biết chăng, họa có ông
chủ ...
Sinh trên con đường xa-vợi, ngồi bên
bờ tre vắng, chạnh lòng tưởng nhớ ông giáo
Ba. Chừng thấy bóng ngày đã xế, chàng
hấp-tấp ra đi và nghĩ-ngợi vẩn-vơ . . .
. . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . .. .. . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . .. .. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
23/7-27/7-49 VITA