VÀI GHI
NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC
Nguyễn Vy-Khanh
Đây là
bài viết cuối trong loạt bài nh́n lại một vài
nếp văn-hóa và văn-học miền Nam
lục-tỉnh khởi từ cái mốc miền
lục-tỉnh mất vào tay người Pháp và trở thành
thuộc địa Cochinchine (1867). Suốt hơn 90 năm
Indochine bị trị đó, dân-tộc ta đă nhiều
lần khởi nghĩa, chống ngoại bang, dưới
nhiều h́nh-thức, đến năm 1945 rồi 1954,
Việt Nam mới t́m lại được độc
lập quốc-gia tương đối, th́ lại
xảy ra cuộc chiến mới, một cuộc nội
chiến v́ ư thức hệ ngoại lai. Sau 30-4-1975, ngày
chiến-tranh Việt Nam ngưng tiếng đạn,
miền Nam v́ hoàn cảnh phải buông súng và miền Bắc
làm chủ cả nước nhờ thiên thời và
địa lợi nhưng không nhân ḥa. Độc lập
đất nước và tinh thần ái quốc chưa
ngừng ở đó; cuộc chiến thay đổi
tần số, nồng độ và nhân sự. Tinh thần
ái-quốc vẫn tiếp tục được
dương cao, cổ vơ, ở đầu thế-kỷ
XXI! Do đó, bàn đến hai chữ "ái-quốc" dù
của thời quá-khứ vẫn bị
ảnh-hưởng bởi những chuyện đang
diễn ra. Nhu cầu nghiên cứu buộc chúng tôi giới
hạn định nghĩa hai chữ "ái-quốc"
vào những thời điểm, biến cố và quan
điểm có tính phổ quát, tránh không để
thời-đại tính và phe-đảng tính chi phối. Bài
khởi từ miền Nam lục-tỉnh nhưng không
thể không mở rộng ra miền Nam tự do và Việt
Nam thống nhất sau đó. Một đề tài khúc
mắc, tế nhị và hăy c̣n nóng đối với
người cùng thời hôm nay, tuy nhiên chúng tôi với
mục-đích nh́n lại, t́m hiểu, với tâm trạng
hậu sinh, thiển nghĩ có thể ghi lại
được vài ư tưởng về chủ-đề
này. Những từ "Nam Bắc, Nam-bộ,
lục-tỉnh, miền Nam, v.v." trong loạt bài
được dùng như lịch-sử đă xảy ra,
ngoài ra chúng tôi không có ư phân biệt, chia rẽ, v́ dân-tộc
và văn-học Việt Nam trong-ngoài trước-sau chỉ
là Một!
Thơ
văn ái-quốc thường bùng phát khi nước nhà nguy
biến và t́nh trạng bi đát đó càng kéo dài th́ vô t́nh
càng phong phú về lượng cũng như giá-trị.
Lịch-sử nước Việt Nam ta là lịch-sử
của một dân-tộc luôn phải trả giá đắt
bằng sinh mạng, tài nguyên, để được
tự chủ, độc lập và phải thường
trực cảnh giác v́ kẻ thù luôn có mặt. Nhưng
kẻ thù ta qua lịch-sử là ai? Là những kẻ
đồng màu da nhưng khác chủng tộc, là những
kẻ khác màu da khác chủng tộc và cuối cùng là
những kẻ cùng màu da nhưng khác lư tưởng. Kẻ
thù c̣n là chính con dân, là đồng loại nhưng
rước voi về dày mả tổ, rước con
người và lư thuyết ngoài về dày xéo con người
và đất nước. Lịch-sử đă và sẽ
đánh giá những con người và tập thể tự
biện minh và đánh bóng "sứ-mạng lịch-sử"
của ḿnh cũng như sẽ thẩm định công
tội ái-quốc của các triều đại, chế
độ và lănh tụ! Con người và triều
đại, chế độ sẽ qua đi nhưng
thơ văn yêu nước luôn được trân
trọng v́ văn-học nghệ thuật là phương
tiện và là h́nh thức hữu hiệu nhất cho
mục-đích chính-trị yêu nước và vận
động dân và nhân quyền!
Tinh
thần yêu nước ở bất cứ miền nào
đă được thể hiện dưới nhiều
h́nh thức qua nhiều giai-đoạn khác nhau, lúc âm ĩ,
lúc náo động. Các nhà trí thức và văn-nghệ sĩ
đă sử-dụng đủ các h́nh thức và thể
loại, để ghi nhận, nói lên, kêu gọi tinh thần
ái-quốc đồng thời vạch mặt, chỉ tên,
tố cáo những âm mưu và thủ đoạn "bán
nước". Thời Pháp thuộc, nhiều văn
phẩm bị kiểm-duyệt, cấm đoán, mà
đến thời gọi là độc lập sau 1954
ở miền Bắc cộng-sản, các tác-phẩm nói lên
long yêu nước cũng bị kiểm cấm và
tác-giả của chúng bị án tù đày hoặc xử lư
nặng nề. Ngay cả hiện nay, khi hai miền đă
thống nhất và đất nước lớn mạnh
về vật chất, ḷng yêu nước vốn là thứ
bộc phát tự nhiên và tưởng là tự do thể
hiện, nhưng không ngờ hai chữ ái-quốc vẫn
c̣n là cấm kỵ, trở nên hiểm nguy cho nhiều công
dân; v́ đối với nhiều tập đoàn bên này hay
bên kia lằn ranh, yêu nước phải theo đúng quan
điểm chỉ đạo hoặc ư đồ
độc đoán!
1. Thơ
văn ái-quốc hồi đầu thế-kỷ XX:
Từ khi
miền Nam lục tỉnh trở thành thuộc địa
Pháp, ḷng trung quân ái quốc và tinh thần quốc gia của
con người miền Nam được biểu lộ, lưu
truyền qua các phương-tiện thông tin đại chúng
như ḥ, thơ, ca dao, vè, v.v., những h́nh-thức
văn-hóa qua đó đă nung đúc tư tưởng
chiến đấu của người dân:
"Chim
bay trong núi / Nước đổ trên nguồn
Mồ cha
cái lũ Tây Dương / Mắc mớ chi nó tầm
đường qua đây! "
Lịch
sử đă chứng minh tinh thần chống ngoại xâm
đă phải trở nên thường trực, liên tục,
nhất là khi phải đứng lên để giải phóng
đất nước:
"Nước
rông, nước kém / Một tháng hai kỳ
đuổi
loài bạch quỉ / đâu sá ǵ ngày đêm. .. "
Rồi
những truyện thơ như Sáu Trọng, thơ Thầy
Thông Chánh, v.v. được dùng để chuyên chở ư
t́nh đối với đất nước. Thơ Sáu
Trọng là truyện thơ dân gian được lưu
truyền rộng răi ở Nam bộ vào cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và được in
thành sách lần đầu tiên khoảng năm 1905, là
một tác phẩm văn học dân gian khá đặc
sắc, câu đầu tiên "Kỷ v́ thọ Pháp tân
trào". Cùng với truyện thơ Thầy Thông Chánh,
truyện thơ Sáu Trọng thuộc ḍng văn học dân
gian phản ánh khá chân thật diện mạo xă hội và
tâm lư chống đối của giới b́nh dân
lục-tỉnh thời ấy. Ở tác phẩm này,
người đọc dễ dàng nhận ra giá trị
tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp
cướp nước, tố cáo hệ thống cai
trị của Pháp nhằm đàn áp bóc lột dân ta cũng
như chà đạp lên các giá trị đạo
đức, văn hóa truyền thống của
người Việt.
Báo chí và
văn-học chữ quốc-ngữ khởi h́nh từ
thời Trương Vĩnh-Kư, Húnh Tịnh Paulus Của,
... thời yêu nước kín đáo, ẩn ḿnh của
người dân bị trị, qua văn hóa, đạo lư
dân tộc; đến đầu thế kỷ XX, những
Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản, v.v. tiếp
nối, đông đảo hơn và công khai đối
đầu với thế lực thực dân. Ngay từ đầu
thế kỷ XX, thời Minh Tân ảnh hưởng trào
lưu Tân thư từ Trung Hoa, Nhật Bản, năm 1903,
Phan Bội Châu vận động ở miền Nam, đă
viết Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư rồi sau
đó, những Ái Chủng Ca, Ái Quốc Ca khoảng 1911;
Đông Kinh Nghĩa Thục thành lập năm 1907, ...
tiếp nối nỗ lực canh tân đất nước
của những Nguyễn Truờng Tộ, Nguyễn Lộ
Trạch, v.v. Từ trời Âu, Phan Châu Trinh rồi
Nguyễn An Ninh truyền bá tư tưởng tự do b́nh
đẳng và nhân bản, bác ái, v.v. nhắm khai mở trí
tuệ dân-tộc để yêu nước hơn. Mở
đầu cho một ư thức hệ dân quyền! Nhóm
Nguyễn An Ninh ra tờ La Cloche fêlée/Tiếng Chuông Rè
rồi La Lutte/Tranh Đấu 1933 công khai đấu tranh
chính-trị với người Pháp, kể cả ra tranh
cử Hội đồng Thành phố Sài-G̣n!
Các
thập niên 1920, 1930, báo chí và văn học miền Nam vào
giai đoạn khai phá này c̣n chứng tỏ tinh thần dân
tộc cao độ. Nhiều nhà báo và chủ báo đă
bị nhà cầm quyền thuộc địa bắt
bớ, báo chí bị đóng cửa hoặc cấm lưu
hành ở Trung và Bắc kỳ như tờ Phụ Nữ
Tân Văn (bị cấm lưu hành từ 1931 đến
1933 v́ phổ biến tin về vụ khởi nghĩa Yên
Bái). Tác phẩm của các nhà văn như Nguyễn
Trọng Quản, Trương Duy Toản, Phạm Minh Kiên
được viết với một tinh thần dân
tộc lộ liễu. Trong khi ở miền Bắc,
Nguyễn Tử Siêu và Đinh Gia Thuyết viết tiểu
thuyết lịch sử chương hồi nhằm
gửi gắm tâm t́nh yêu nước, th́ cùng lúc đó
một số nhà văn miền Nam như Trương Duy
Toản đă xuất bản những tiểu thuyết
lịch sử như Phan Yên Ngoại Sử Tiết Phụ
Gian Truân (1910), Mộng Huê Lầu (tức Lê Hoằng Mưu)
in Oán Hồng Quần Phùng Kim Huê (1920), Tân Dân Tử có
Giọt Máu Chung T́nh Ṭng Đ́nh Thảm Kịch, và Phạm
Minh Kiên với Lê Triều Lư Thị, Tiền Lê Vận
Mạt, v.v. - những truyện với đề tài
lịch sử này gây tinh thần tích cực và yêu
nước. Trần Chánh Chiếu viết Minh Tân Tiểu
Thuyết (1907) và Hương Cảng Nhân Vật, Quảng
Đông Tỉnh Thành Phong Cảnh cổ động Minh Tân.
Trần Hữu Độ viết Hồi Trống Tự
Do, Tờ Cớ Mất Quyền Tự Do, Nguyễn An Ninh
viết Hai Bà Trưng, vv đều nhắm cổ
động ḷng yêu nước và chống thực dân. Ngay
cả công chức làm việc với người Pháp
như Hồ Biểu Chánh cũng không quên t́nh nước,
đă soạn chung với Lê Quang Liêm vở tuồng hát V́
Nghĩa Quên Nhà (1917), v.v.
Giai
đoạn văn học phôi thai này cũng đă có
những tác phẩm nghị luận thời sự hoặc
lư luận, lời sắc bén mà nội dung yêu nước
cũng quyến rủ không kém. Đất thuộc
địa do đó được quyền ăn nói và
tự do báo chí hơn nhưng rồi một phần các tác
phẩm đó cũng bị cấm hoặc tịch thu,
như từ 1927 đến 1931 có cả trăm cuốn
bị cấm như Hai Bà Trưng của Nguyễn An Ninh,
Ngồi Tù Khám Lớn của Phan Văn Hùm, Tiểu Anh Hùng
Vơ Kiết của Phú Đức, cũng như một
số truyện và tiểu thuyết phổ biến t́nh
tự dân tộc, v.v. Các thư xă được thành
lập ở nhiều tỉnh: Bảo tồn thư xă, Cường
học thư xă, Nữ lưu thư quán, Tân dân học xă,
Chiêu Anh thư quán, vv. Các hội kín được thành
lập, nổi lên thành phong trào, như Hội kín Nguyễn
An Ninh, ...
Như
vậy, các Tân thư hồi đầu thế kỷ XX và
các luồng tư tưởng dân chủ Tây phương,
đă giúp đưa đến những tư tưởng
mới về yêu nước, như tư tưởng dân
chủ, nhân quyền, khác với yêu nước thời quân
chủ cho đến đó chỉ là "trung quân ái
quốc", yêu nước một chiều, lại như
các chế độ sau 1945, 1954, 1975, v.v.
2. Thời
kháng-chiến chống Pháp 1945-1954:
Năm
1944, Kỳ ngoại hầu Cường Để đă
viết Khuyến Cáo Quốc Dân Ca như một tâm thư
cuối cùng của đời ngài:
"Nước
mất 80 năm rồi đó/ Quốc dân ta có nhớ hay
không?
Ḱa xem các nước
Á-đông, / Diến, Phi đều đă thoát ṿng Mỹ Anh!
Chỉ c̣n một ḿnh ta
đó / Vẫn để cho Pháp nó đè đầu.
Pháp kia c̣n có chi đâu, /
Từ ngày thua Đức đă hầu diệt vong
(...)"(1)
Đến
thời điểm đó, thời điểm Kỳ
ngoại hầu gửi đồng bào trong nước
những lời trên, là thời chế độ thực
dân tưởng đă vững mạnh ở Đông
Dương, trong thực tế bắt đầu lung lay và
phải chấm dứt sau đó, sau một cuộc kháng
chiến kéo dài cả gần chục năm. Thật
vậy, các vận động chính-trị của nhiều
từng lớp và thành phần trí thức và cách-mạng
từ khi chiến thuyền Pháp bắn vào Đà Nẳng
rồi chiếm đoạt miền Nam lục-tỉnh
đă hun đúc ḷng yêu nước nơi người
Việt khắp ba kỳ và đă đưa đến kháng
chiến khởi động đúng lúc ở trong Nam.
Cuộc chiến Đông Dương thứ nhất có thể
xem như khởi đầu đêm 22 rạng 23 tháng 9
năm 1945 (trước đó gần năm năm, ngày
23-11-1940, đă có những nổi dậy chống Pháp ở
Sài-G̣n và Mỹ Tho, Vĩnh Long, nhưng bị Pháp chận
đứng). Đêm 22-9-1945, do liên quân Anh-Pháp bất ngờ
đánh chiếm trụ sở Ủy-ban Hành chính Lâm thời
Nam Bộ là cơ-cấu xuất hiện từ 25-8-1945 khi
Trần Văn Giàu tuyên bố Nam bộ độc lập
và chế độ Cộng-ḥa dân chủ thành lập
tại đây - xem như một tiếp nối của
phong-trào Thanh Niên Tiền-phong của BS Phạm Ngọc
Thạch. Ngày 23-9-1945 Nam-Kỳ kháng-chiến (2), khởi
đầu cho một cuộc chiến tranh nhiều mặt
trận, bắt đầu mở ra với du kích, thanh niên
vô bưng - rừng U-Minh, Đồng Tháp Mười, v.v., theo
những đoàn Giải Phóng Quân, Vệ Quốc Đoàn.
Sẽ bị cưỡng bức hoặc tinh tế lợi
dụng, nhưng kháng-chiến chống Pháp đă là một
phong trào đấu tranh bộc-phát của thanh niên, sinh viên
học sinh yêu nước ngay trong ṿng vây của thực
dân. Kế thừa truyền thống cha ông, mang trong ḿnh hào
khí Hoa Lư, Lam Sơn và Đông A, tuổi trẻ thời
nào cũng nhanh chóng t́m được tiếng nói chung trước
cảnh sơn hà nguy biến. Ngoài Bắc từ khi Chính
phủ lâm thời ra mắt ngày 2-9-1945, các nhóm chính trị
đấu tranh (Việt quốc, V́ệt cách, đệ
tứ và đảng cộng-sản Việt Nam) tranh giành
thế chủ động, th́ trong Nam, t́nh h́nh khác hẳn.
Phải chăng miền Nam bị Pháp chiếm
trước, tinh thần yêu nước đă bùng lên
sớm và mạnh hơn, v́ đă từng bàng bạc qua
đạo lư, tinh thần hảo hán, Lục Vân Tiên, rồi
các phong trào vận động Minh Tân, Đông Du, đám tang
Trần Văn Ơn ngày 9-1-1950, v.v. Tiếng súng kháng
chiến chống Pháp chỉ nổi lên ngày 19-12-1946 ở Hà
Nội và vùng phụ cận, khá lâu sau Tạm ước
ngày 14-9-1945 và Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946!
Như vậy, miền Nam kháng chiến trước
miền Bắc gần hai năm!
Sau ngày
1-7-1949, khi cựu hoàng Bảo Đại về nước
trở thành quốc trưởng chính phủ
"quốc-gia Việt-Nam" (thay cho Nam kỳ tự
trị), nước Việt-Nam 'tự-do' trong Liên-hiệp
Pháp, mặt khác, phía chính quyền kháng chiến Việt-Nam
đă dần để lộ rơ chân tường
cộng-sản, lúc bấy giờ ư nghĩa của
"kháng-chiến" đă thay đổi và đến khi
hiệp định đ́nh chiến Genève kư ngày 20-7-1954 th́
không ai c̣n nói đến "kháng-chiến" nữa, lúc
đó quốc-cộng rạch ṛi phân đôi đất
nước cũng như trong ḷng người dân
Việt-Nam; vĩ tuyến 17 qua-phân lănh thổ và
người dân tập trung, tập kết chuẩn bị
cho một cuộc đối đầu mới, sẽ
được gọi là "chiến-tranh lạnh"
(ngôn-ngữ đối ngoại) và "nội
chiến" hoặc "chiến-tranh huynh đệ"
(ngôn-ngữ đối nội), kéo dài gần 21 năm và
hậu quả đến nay, hơn 31 năm sau, vẫn
chưa chấm dứt! Văn-nghệ đă và cũng
sẽ bắt đầu một cuộc qua phân
thường trực, thành hai chiến tuyến; nền và
mảng văn-nghệ "kháng-chiến
cộng-sản" không có mặt người làm
văn-nghệ ở "thành"(vùng tề), mà những
người làm văn-nghệ "tự do,
quốc-gia" sẽ không đứng bên những nghệ
sĩ gọi là "chống Mỹ, chống ngụy"!
Thời
điểm 1945-1950 đă là thời đặc biệt
của văn học kháng chiến và yêu nước ở
trong Nam. Nguyễn Văn Sâm nhận xét xác đáng về
"nền" văn-chương tranh đấu : "
... Trước giai đoạn 1945, chúng ta chỉ có
những tác phẩm tranh đấu nhưng chưa có
một nền văn-chương tranh đấu vi
thời đó chỉ có một vài nhà văn sáng tác lẻ
tẻ khi ḷng ḿnh rung động về vấn đề
quốc-gia, dân-tộc; nhà văn chưa đặt vấn
đề đường hướng sáng tác để
những cây bút đồng thời cùng đánh vào một
mục tiêu. Ngày xưa, Nguyễn Đ́nh Chiểu, Huỳnh
Mẫn Đạt ... lạc loài trước bao nhà văn cùng
thời đại. Năm 1945, gần như tất cả
văn gia đều hướng về việc tranh
đấu, giải thực (...) Hi vọng vừa bừng
nở đă chợt tắt v́ ư đồ thực dân
của người Pháp trong việc muốn tái lập
chế độ đô hộ xưa, dân chúng v́ vậy oán
hận, căm thù. Thêm vào đó cảnh máu lửa khắp
nơi, người chết, nhà cháy, ḷng người như
một cảm thấy yêu mến quê hương, dân-tộc
hơn. Họ làm mọi điều hữu ích cho quốc-gia
không để ư ǵ đến những hậu quả tai
hại cho chính bản thân và gia đ́nh họ: gia nhập
bộ đội, xung vào ban cứu thương, sáng tác
tuyên truyền ḷng ái quốc hay phổ biến những sáng
tác đó, muôn người như một (...)
văn-chương Nam-Bộ v́ vậy được
những người cầm bút lúc đó coi như thể
hiện sự đóng góp phần ḿnh vào công cuộc chung
của quốc-gia " (3).
Như
đă phân tích ở trên, chính tinh thần đạo lư b́nh
dân cộng với ḷng trung quân và yêu nước của con
người ở vùng đất bị thực dân xâm
chiếm đă gây nên phong trào kháng chiến rất đặc
biệt ở trong Nam. Tâm lư thực tế, ngôn ngữ dân
gian càng khiến ḷng ái quốc dễ đi vào ḷng
người hơn. Đó là lư do khiến trường ca
Chiến Sĩ Hành (1949) và tiểu-thuyết Cây Ná Trắc
của Vũ Anh Khanh, truyện Sương Gió Biên Thùy,
Nắng Bên Kia Làng của Lư Văn Sâm, Vó Ngựa Cầu Thu
(1945), Người Yêu Nước của Thẩm Thệ Hà,
Tôi Bị Đày Đi Bà Rá của Việt Tha, Tàn Binh
của Sơn Khanh (Nguyễn Văn Lộc), Cứu Lấy
Quê Hương của Hoàng Tấn, ... và thơ văn ở
Sài-g̣n và trong Nam đă thành công khơi dậy tinh thần yêu
nước và kháng chiến chống Pháp. Thơ văn này có
khác biệt tinh tế nếu so sánh với thơ văn
chống Pháp từ các liên-khu ở Bắc và Trung bộ sau
đó. Cũng kêu gọi lên đường, cầm giáo mác
khí giới, nhưng ḷng ái-quốc trong thơ văn Vũ
Anh Khanh, Lư Văn Sâm, Sơn Khanh, ... vừa có nét t́nh lư ...
gần gũi và dễ cảm hóa người đọc -
cũng như những Cha Tôi của Lê Đạt, Bên Kia
Sông Đuống của Hoàng Cầm, Chiều Mưa
Đường Số 5 của Thâm Tâm, nhiều bài của
Quang Dũng, ... hơn là những Ta Đi Tới của
Tố Hữu, Đất Nước của Nguyễn
Đ́nh Thi, Nhớ Máu của Trần Mai Ninh, v.v.
Văn
học kháng chiến và yêu nước khởi dậy
từ Sài G̣n với các nhóm văn-học yêu nước như
nhóm gồm Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Sơn Khanh,
Quốc Ấn, Lư Văn Sâm, như Ngao Châu (Bùi Đức
Tịnh), Phi Vân, Dương Tử Giang, Hoàng Tố Nguyên,
Thiên Giang, Khổng Dương, Bách Việt (Mai Văn
Bộ), ... Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh lập nhà
xuất-bản Tân Nam Việt. Lư Văn Sâm chủ
trương tờ Việt Bút có sự cộng tác của
các nhà thơ Hoàng Tấn, Hoàng Phố, ... tờ này về
sau trực thuộc nhóm báo chí cũng như một số
hiệp hội văn nghệ sĩ khác do Thành ủy Sài G̣n
chi phối; họ tổ chức những cuộc băi công
vào tháng 3-1950, kư giả Nam Quốc Cang (người viết
mục 'Sài-G̣n hoạt cảnh' và 'Trớ trêu' nhiều bài
phúng thích các chính phủ Nam kỳ tự trị) bị ám
sát (6-5-1950), Pháp bắt nhà báo Thành Nguyên của tờ
Điện Báo ngay buổi họp ở rạp Nguyễn
Văn Hảo, sau đó một số nhà văn nhà báo
như Lư Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thiếu Sơn,
v.v. phải rút vô khu kháng chiến. Đấu tranh công khai
sau đó yếu dần, chuyển sang những cuộc
chống những "sản phẩm khiêu dâm" (1952) và
"đầu độc tinh thần dân-tộc" (1953)
- trong thơ văn và cả kịch trường, ca
nhạc, rồi quay ra làm báo giáo dục như tờ
Việt-Nam Giáo Khoa của Bùi Đức Tịnh, Nguyễn
Bảo Hóa, Thuần Phong, v.v. Các báo đăng nhiều
truyện thơ nói lên t́nh yêu nước và kêu gọi
chống xâm lăng, ... Riêng tờ Nhân Loại dần dà
trở thành cơ quan văn-nghệ qui tụ nhiều nhà văn
thơ yêu nước theo cộâng hoặc độc
lập, như sẽ tŕnh bày ở một đoạn sau.
Thơ
văn nói chung đề cao ḷng yêu nước, tinh thần
dân-tộc và kêu gọi đấu tranh giành độc
lập. Về văn xuôi, Con Đường Cứu
Nước của Thẩm Thệ Hà và Hường Hoa nói
với người đọc muốn họ "nhận
lấy cái ư niệm tranh đấu của một mùa Xuân
tranh đấu" (4). Trí thức và văn nghệ sĩ
chính kiến và tư tưởng có thể khác nhau - như
không khí trong Giai Cấp của Sơn Khanh nếu so với
các tác phẩm khác, nhưng trước vận nước,
tất cả chung vai đấu tranh! Người Yêu
Nước 1950 của Thẩm Thệ Hà cũng như
tác-phẩm của Vũ Anh Khanh đề cao, cổ vơ
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong hầu
hết các tác-phẩm lớn nhỏ của ông, văn
cũng như thơ: Cây Ná Trắc, Bạc X́u Ĺu, Nửa
Bồ Xương Khô, Đầm Ô Rô, Sông Máu, Ngũ Tử
Tư, v.v. Và nhiều nhà văn khác nữa!
Thơ là
thể loại rất thịnh hành thời kháng-chiến.
Đáng kể có Ái Lan với tập Trên Đường,
Liên Chớp có Khói Sương, Ngao Châu Bùi Đức
Tịnh tố cáo thực dân xâm lăng trong tập Chiêu
Hồn trong đó có bài Hận Nam Kỳ, Xuân Miễn
với Lửa Binh có bài An Phú Đông vẫn được
chính thức đề cao "đă trở thành sử thi
của cuộc kháng-chiến Nam Bộ" :
''Bạn
đă từng nghe An Phú Đông,/ Một làng nho nhỏ ở
ven sông.
Một
năm chinh chiến! Ôi chinh chiến! / Sông nước
Sài-G̣n nhuộm máu hồng,
(...)
Nhưng chẳng nao gan người chiến sĩ, / Quân
giặc vào đây chết ở đây.
Thân dẫu nát thành tro
bụi nữa, / Cũng không rời khỏi Phú Đông này''
Tuyển
tập Thơ Mùa Giải Phóng (1949) gồm 20 nhà thơ nói
lên ḷng yêu nước và cổ động tinh thần
dân-tộc chống ngoại xâm: Chim Xanh, Bân Bân nữ sĩ
(Mộng Tuyết), Ái Lan, Khổng Dương, Vũ Anh
Khanh, Trúc Khanh, v.v
"Muôn
lồng ngực hít khí trời cao rộng, / Muôn cánh tay chào
đón phút tự do.
Ôi! Say sưa, cuồng
nhiệt reo ḥ! / Thề lấy máu điểm tô trang
lịch-sử "(Ái Lan, Thu Giải Phóng).
Nhà thơ Đằng
Phương (Nguyễn Ngọc Huy) th́ có cái nh́n khác,
nhuốm âu lo hậu vận :
"... Trời mù mịt,
giang-san tràn ngập máu, / Khúc lâm-hành đă trỗi thúc ba quân,
Cùng một ḷng hăng hái,
cả muôn dân / Đă tiến bước lên
đường t́m ánh-sáng.
(...) Hồn dân-tộc
bừng lên trong gió phất, / T́nh quốc-gia bàng-bạc
phủ sơn-xuyên,
Tim muôn dân chỉ nhịp
một câu nguyền : / "Tranh quyền sống về dâng
cho chủng-tộc"
Sao có kẻ nỡ manh-tâm
lừa-lọc, / Hướng đấu-tranh theo một
nẻo mơ-màng :
Mộng
đại-đồng, hờ-hững với giang san /
Lấy giai cấp để thay t́nh máu-mủ?
Cờ giải-phóng
mầu trung ôi đă trở! / Và đồng-tâm đổ
vở tự bao giờ.
Biết bao người
đă lạc bước trơ-vơ / Trước
thảm cảnh tương-tàn trong cốt-nhục!..."
(5)
Bài thơ
trường thiên Chiến Sĩ Hành của Vũ Anh Khanh, được
viết cuối Thu năm 1947 nhưng chỉ
được xuất-bản hai năm sau, v́ kiểm
duyệt và khó khăn thời đó cho thơ văn tranh
đấu (6). Hành là một thể-loại thơ cổ
Trung-Hoa, được các nhà thơ Việt Nam
sử-dụng cho các đề tài ái-quốc (kêu gọi,
đề cao, ...) và tranh đấu, tương
đương với Hịch bên văn xuôi. Hành là thể
thơ cho phép vấn hỏi và than thở với vài
dụng-ngữ như "hề!" và cấu trúc
nghi-vấn. Vũ Anh Khanh đă tận dụng những phép
đó. Ngoài ra, chữ dùng và khí thơ trong bài Chiến Sĩ
Hành dựng lại h́nh ảnh quê-hương hào hùng cha ông
đă hy-sinh để lại mà nay chính mảnh đất
đó lại lâm vào loạn ly:
"Hai
năm trước, cuối mùa thu xám / Lửa căm
hờn cháy nám trời xanh
... Khói hờn loạn
phủ ải xa / Lửa hờn dậy khắp sơn-hà
Việt-nam"
cũng
như nói lên chí khí thanh niên yêu nước. Tác-giả đă
tả rơ nét h́nh ảnh người yêu nước:
những người thanh niên ra đi v́
đại-nghĩa, v́ đất nước lâm nguy,
những chiến sĩ chủ-tŕ hành-động nhiều
hơn nói xuông! Lời thơ và h́nh ảnh hùng tráng (Vó
ngựa gơ dịp cầu cao vọi / Gươm ḿnh khua
mắt dơi đêm dầy) nhưng sao nỗi ngậm ngùi,
thương tiếc cứ vương vất
(Chiến-sĩ đi buồn tênh tiếng dế!),
tâm-trạng người đi vướng tâm-t́nh người
ở lại, hành tŕnh dài và đầy hy vọng nhưng
viễn tượng sẽ ra sao, nào ai hay (Trời hộ
người trai trẻ thành công)! Chiến Sĩ Hành thuộc
về thi-ca tranh đấu, và thiển nghĩ, nhà thơ
đă thành công làm sống lại thời hào-hùng đầy
khí-thế và hoài băo của người trẻ những
năm tháng đó, dù có dăm câu cho thấy
ảnh-hưởng thi-ca lăng-mạn yêu nước như
Chinh phụ ngâm. Vũ Anh Khanh c̣n là tác-giả Tha La Xóm
Đạo, một bài thơ nổi tiếng khác từ cùng
thời kháng-chiến, được sáng-tác khi nhà thơ
trên đường kháng Pháp về ngang qua quê nhà, nh́n
lại nơi xưa đầy dấu vết
chiến-tranh tàn phá và ngậm ngùi sự trống vắng
của người xưa yêu dấu! Bài này đă
được nói đến rất nhiều, nhưng
hễ nói đến thơ văn kháng-chiến trong Nam không
ai có thể quên giá-trị văn-học cũng như
lịch-sử của bài Tha La Xóm Đạo!
Thời
văn-học kháng chiến có một đặc
điểm nữa là việc dịch thuật các
tác-phẩm rất được chú trọng. Các
tác-phẩm nói lên ḷng yêu nước của các tác-giả Âu
châu được liên tục dịch đăng báo và
xuất-bản : Con Đường Cứu Nước
(của P.I. Stahl do Thẩm Thệ Hà dịch chung với
Xuân Tước, 1947), Đường Lên Cơi Bắc (của
R. Wright do Bùi Nam Tử dịch), v.v.
Về lư
luận và lư thuyết văn-nghệ, nhiều nhà văn hóa
thời kháng-chiến này viết báo và xuất bản
những vận động cho một văn-hóa mới,
nghệ-thuật mới: Văn Nghệ Và Phê B́nh, Nghệ
Thuật Và Nhân Sinh (1949) của nhóm Chân Trời Mới (Tam
Ích, Thiên Giang và Thê Húc), Việt-Nam Trên đường Cách
Mạng Tân Văn Hóa (1949) của Thẩm Thệ Hà, Con
Đường Văn Nghệ Mới (951) của Triều
Sơn. Thiên Giang viết Văn Chương và Xă Hội
(1947), Nghệ Thuật Vị Nhân Sinh (1949) dùng lư luận
văn-nghệ cổ động đấu tranh văn-hóa,
xă hội. Nhà thơ Ái Lan viết Sứ Mạng Thi Nhân (1948)
cổ động thơ ca vị nhân sinh, thơ cứu
nhân loại. Nguyễn Bảo Hóa xuất-bản Nam Bộ
Chiến Sử (1949) với tự ngôn "Nghệ sĩ
Việt-Nam lấy tư cách nghệ sĩ có nhiệm
vụ phải làm trong cuộc giải phóng dân-tộc
chống xâm lăng". Sách bị Pháp tịch thu!
Thời
kỳ văn-học kháng chiến ở Nam bộ 1945-1950 có
đặc điểm là thời này nhất là lúc khởi
đầu, đảng cộng-sản Việt-Nam chưa
can thiệp mạnh mẽ và chưa có nhân sự về
văn-nghệ và các nhà văn vào các chiến khu 8,9 chưa
nhiều. Chính người lănh đạo kiêm lư thuyết
văn-nghệ Lưu Quư Kỳ, phó ban tuyên huấn của
Xứ ủy Nam bộ, chi hội trưởng Chi hội
Văn Nghệ kháng-chiến Nam bộ, đă tường
thuật trong Qua Thực Tiễn Văn Nghệ Kháng
Chiến Nam Bộ xuất-bản ở Hà-nội năm
1958 rằng văn-nghệ sĩ kháng chiến Nam bộ cho
đến năm 1949 hoạt động tự phát 'theo
cảm tính' và 'bồng bột, sôi nổi', từ 7-1949
mới có cuộc nghiên cứu báo cáo Chủ nghĩa Mác và
vấn-đề văn-hóa của Trường Chinh. Tháng 1
năm 1951 thêm cuộc họp lần thứ hai trong khu 9
đă nghiên cứu bản cương lĩnh của
đảng, và đến đầu năm 1954 thêm cuộc
họp để kiểm điểm sự thực
hiện chủ trương 'khai thác và sử dụng
vốn cổ văn-nghệ dân-tộc, phục vụ kháng
chiến' (7). Chi hội Văn-nghệ Nam bộ
được h́nh thành ngày 3-1-1950 và từ đó miền
Bắc thật sự chi phối mạnh kháng chiến
miền Nam. Xứ ủy Đảng CS Đông dương
ở Nam bộ cấm đoán ca vọng cổ, hát bộ,
nói thơ kiểu Bạc-Liêu, đàn nguyệt, đàn c̣,
v.v. nhưng các vùng kháng chiến vẫn không tuân theo - đó
cũng có thể là lư do đưa đến bế tắc
v́ truyền thống tín ngưỡng b́nh dân và hạ
tầng nông dân không hưởng ứng văn-nghệ
chỉ huy - chính xứ ủy Lê Duẫn cũng đă báo cáo
như vậy. Từ 1950, lănh đạo văn-nghệ
trương phương châm 'dân-tộc, khoa học,
đại chúng' nhập cảng từ các chiến khu
Việt Bắc và chú ư đến 'tác phong của
người văn-nghệ sĩ nhân dân, văn-nghệ
sĩ cách mạng' cũng như lập trường giai
cấp của văn-nghệ sĩ! Phải chăng đó
là lư do văn-nghệ yêu nước và kháng chiến bộc
phát ở Sài-G̣n đă yếu dần rồi vắng tiếng?
Và cũng từ đó, văn-nghệ chỉ huy từ
lập trường đến nhân sự dần dà
độc tôn chiếm lĩnh! Sau cuộc hội tháng
1-1951, đảng đề ra thêm lập trường giai
cấp trong văn-nghệ, đề cao thơ lục bát
(vè) và những h́nh thức văn-nghệ đại chúng
từng bị cấm đoán nhưng không thành công: các
tuồng cải lương và hát bộ được ...
nhuận sắc theo văn kiện 'khai thác vốn cổ
dân-tộc' đem từ đại hội thành lập
đảng cuối năm 1951 ở vùng Việt Bắc vào.
Lưu Quư Kỳ cho biết chiến dịch bộ
đội 'sáng tác' ca dao, trong một vài tiếng
đồng hồ, một tiểu đoàn (400 bộ
đội) có thể 'sáng tác' được 500 câu "ca
dao". Bảo Định Giang, một nhà thơ
kháng-chiến đă có kỷ lục sáng tác 'ca dao' in thành
tập (Ca Dao Đồng Tháp, 1947 và Ca Dao Gọi Lính, 1948).
Tuy vậy, đến cuộc họp cao cấp vào tháng
5-1954, đảng và chỉ đạo văn-nghệ Nam bộ
vẫn kiểm thảo và phàn nàn về tính văn-nghệ
hữu khuynh 'dám nghĩ dám làm' của cán bộ và quần
chúng trong Nam vẫn chưa 'chữa' được (8)!
Văn-nghệ
kháng-chiến trong các Khu đă được sách báo trong
nước ghi thành tích và xuất bản nhiều biên
tập, ở đây xin nhắc sơ qua. Khu 8 Đồng
Tháp Mười là nơi sinh hoạt văn-nghệ của
Bảo Định Giang, Nguyễn Bính ('chín năm đốt
đuốc soi rừng' của ông đă để lại
trường ca Những Thanh Gươm Bén, truyện
thơ Hương và hai kịch thơ Ông Lăo Mài Gươm
1947 và Chiếc Áo Đêm Trăng); Khu 9 có Sơn Nam, Đoàn
Giỏi, Kiên Giang Hà Huy Hà, ... Đặc Khu Sài-G̣n Chợ
Lớn có sự góp mặt của Lư Văn Sâm, Lê Vĩnh
Ḥa, Dương Tử Giang, Nguyễn Bảo Hóa, v.v.
Miền Tây địa phương văn-nghệ của
Bảo Định Giang (lúc đầu), Viễn
Phương, Xuân Miễn, ... Nguyễn Bính sau khi tập
kết trở về Bắc đă xuất-bản
Đồng Tháp Mười, Trả Ta Về, Gửi
Người Vợ Miền Nam, v.v. Thơ rất b́nh dân,
như lời hưá với người 'má' miền Nam
trong bài Chung Một Lời Thề:
"(...) Mấy
doi, mấy vịnh, mấy vàm / Con nh́n theo má chèo ngang bong
dừa
Gió lùa mái tóc bạc phơ
/ Mến thương tràn ngập mấy bờ sông sâu:
'- Má ơi, con dám quên
đâu / Con xin thề đúng như câu má thề
Ngh́n muôn gian khổ
chẳng nề / Má chờ con nhé, con về, má ơi!"
(Tuyền Tập
Nguyễn Bính, 1986, tr. 107).
Khi
viết về văn-học kháng chiến giai đoạn
này, các nhà phê b́nh và văn-học sử tùy vị trí
người quốc-gia hay cộng-sản hoặc yêu
nước độc lập, đến nay, 2006, dù đă
có những thay đổi, 'cải thiện', 'cởi
mở', nhưng vẫn có những quan điểm và
lựa chọn không đồng nhất (sự thật
chỉ có Một nhưng có nhiều cái nh́n và 'tiếp
cận'!). Như với Vũ Anh Khanh, kháng chiến thành
rồi theo kháng chiến khu và tập kết năm 1954
nhưng rồi không lâu sau vượt cầu Hiền
Lương vô Nam đă bị bộ đội bắn
chết. Như định nghĩa hay cách xếp các nhà văn
nhà báo vào loại "yêu nước công khai" ở
Sài-G̣n của các soạn-giả tập Địa Chí
Văn Hóa Thành Phố HCM trong đó người kháng
chiến nằm vùng và người kháng chiến thành
hoặc độc lập được đặt
cạnh nhau. Với cách nh́n của trong nước cho
đến nay, các tác-giả kháng chiến như Sơn
Khanh, ... ít được nhắc đến hoặc có
nhắc nhưng nhắc cho có như Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc,
... hoặc nhắc để phê phán nặng nề như
với Hồ Hữu Tường, ..! Về tiểu
sử, Lư Văn Sâm, Dương Tử Giang h́nh như
cũng có 'vấn đề' và Lê Vĩnh Ḥa chẳng hạn
từng xuất-bản Mái Nhà Thơ (1965) và Người
Tị Nạn nhưng trong nước chỉ nhắc
đến Chiếc Áo Thiên Thanh (1959) là một tuyển
tập tuyện ngắn, c̣n Vơ Phiến trong bộ Văn
Học Miền Nam không ghi lại tiểu sử Lê Vĩnh
Ḥa - dù là em ruột, phải chăng v́ anh chống Cộng?
- Thơ văn kháng chiến ở Trung
Bộ và Việt Bắc:
Khởi
động từ Sài G̣n và lục-tỉnh Cochinchine,
ngọn cờ Vệ quốc kháng chiến và thơ văn
yêu nước sau đó đă chuyển lửa ra Trung
Bắc và đồng thời một nền văn-học
gọi là cách-mạng lớn mạnh trong các liên khu Việt
Bắc và chuyển trở về các liên khu miền Nam,
chỉ thị và đề cương theo nhân sự và tác
phẩm vào Nam. Trần Mai Ninh với bài Nhớ Máu như
tiếng kêu gọi lên đường từ miền Trung:
"Ta
quyết thắng / Việt-Nam rồi đứng dậy
Sáng vô chừng / rất
đẹp với Nha Trang và Nam Bộ
Phan Thiết, Phan Rang,
Đà Lạt / Máu chan ḥa trên góc cạnh kim cương
Các anh hùng tay hạ súng
trường / Rồi khẽ vuốt mồ hôi và máu
Họ cười vang rung
lớp lớp tinh cầu..."
Với
phương châm 'văn-nghệ là vũ khí, nhà văn là
chiến sĩ', viết văn theo đường lối
xă-hội chủ-nghĩa là sử dụng phương pháp
hiện thực phê phán, phê phán là xấu tất cả
những ǵ của các chế độ khác, thứ hai là
sử dụng hiện thực xă-hội chủ-nghĩa,
nghĩa là cái ǵ của thế giới cộng-sản
đều tốt hết, đều không có khuyết
điểm, nếu có th́ chỉ là hiện tượng
(chứ không là thực chất), là do kẻ thù gây ra.
Chiến tranh khủng khiếp nhưng nhà văn
cách-mạng không được nói đến cái chết,
những mất mát và cảnh bi thương - vành khăn
trắng của Phạm Tiến Duật là trật chỗ,
là sai! Kẻ thù không bao giờ tốt, hoặc có th́ cũng
không được nói. Các nhân vật chính đều
'tốt', là những nhân vật chính diện! H́nh ảnh anh
bộ đội - "điển h́nh bộ
đội", lúc nào cũng "đẹp",
"khoẻ" về h́nh hài cũng như lư trí: trong
thơ Chính Hữu (Đồng Chí, 1947), người bộ
đội đối xử với nhau bằng t́nh cảm
cao quí, người lính bộ đội trong Xung kích
của Nguyễn Đ́nh Thi th́ trưỡng thành, xứng
danh là chiến sĩ cách mạng; cũng như những
phụ nữ kháng chiến vùng Huế trong Gặp Gỡ
của Bùi Hiển! Người phụ nữ mẹ và
vợ bộ đội đảm đang, vị tha v́
chồng con yêu nước!
"Thằng
Trâu con chó / Cặp đuôi chạy dài
Mă bố nhà nó / Nịnh
Tây hết thời"
Là Bà
Mẹ Việt Bắc bên cạnh những Bầm ơi, Bà
bủ, Chị là người Mẹ của Tố Hữu,
Bà mẹ canh biển của Tế Hanh, Mẹ của
Nguyễn Bính, Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm
của Chế Lan Viên, ... Người vợ trong
Đợi chờ của Nam Cao đảm đang hết
mọi việc nhà cho chồng đi công tác bộ
đội xa. Quan hệ dân với bộ đội lúc nào
cũng "chân thật, đẹp đẽ",... Huy
Cận viết Gặt lúc đêm trăng tả cảnh
bộ đội giúp dân gặt lúa, Hoàng Trung Thông viết
Bao giờ trở lại tả ḷng mong đợi anh
bộ đội trở lại làm nhộn nhịp thôn quê:
"Anh
đi chín đợi mười chờ
Tin thường thắng
trận, bao giờ về anh?"
Lưu
Trọng Lư th́:
'Ng̣
cải đă ra hoa / Bí bầu đă trổ trái
Nỡ nào anh đi măi /
Bộ đội đă về làng
Súng đạn đă âm
vang / Giặc tháo sau tháo trước
Tay cơi trầu,
đọi nước / Miệng gọi mạ gọi
thầy
Chớ chi anh về
đây / Giữa đoàn quân chiến thắng!' (Ng̣ cải
đơm hoa, 1949) (9)
Bài thơ
từng bị chỉ trích có tư tưởng bi quan, v́ câu
áp chót.
Phần
lớn thơ văn yêu nước và kháng chiến ở ba
miền nói chung hăy c̣n lăng mạn, trữ tŕnh. Thơ
vẫn là thể-loại được sử-dụng
nhiều nhất và được xem là "binh chủng mũi
nhọn".
"Thôi
hăy lên đường tráng sĩ ơi!
Quê hương mong
đợi đă bao đời
Biên thùy nghe dậy
niềm ai oán,
Gươm
hận mài chưa? Khát máu rồi..."(Biết gửi
đưa ai, Vệ Quốc 1-1946) (10) Xin trích bài Chia tay - có
thể là sáng tác tập thể. Vào những ngày đầu
của Nam bộ kháng chiến, các chiến sĩ của
Vệ Quốc Quân đă đột phát gia nhập hàng
ngũ. Khả năng quân sự, tŕnh độ văn hóa,
tư tưởng v.v. rất phức tạp. Nhằm
mục đích tuyển chọn các cấp sĩ quan, lănh
đạo các đơn vị chiến khu 9 đă tổ
chức đại hội sát hạch để xác
định khả năng các chiến sĩ ưu tú và
cấp lănh đạo sẽ định cấp bực quân
hàm. Bài thơ được ghi lại sau đây
được sáng tác vào đêm liên hoan bế mạc
đại hội sát hạch lần đầu và
được in trên báo Tiếng Súng Kháng Địch
số 1, thu 1947. Bài thơ ghi lại qua trí nhớ của
một cựu kháng-chiến, có thể có vài từ ngữ
ghi sai và có thể thiếu một câu:
"Chia
nẽo sa trường, / Bạn về, thôi thế.
Tặng bạn
lưỡi gươm, / Đừng quên nhau nhé.
Cười hát điên
cuồng, / Mắt không mờ lệ, / Ḷng sao rất
thương
. Bạn đi lồng
lộng trùng dương, / Ta về gối súng ôm
gươm đợi thù.
Nhớ măi một mùa thu, /
Tung bay cờ đại hội.
Ta cùng bạn thi đua. /
Mến thương mà sôi nổi.
Có ngại ǵ hơn thua. /
Chỉ biết nêu chói lọi,
Danh dự của toàn khu.
/ Vẳng nghe lời bạn như ru:
Ta thi là để rửa
thù giang sơn.
Nghĩ tới giặc
căm hờn nét mặt. / Gươm bạn trao vằng
vặc trăng soi,
Rực lên ư thép sáng
ngời. / Gươm trao là để cho người
lập công.
Hăy lập chiến công, /
Hăy giành thắng lợi.
Tiếng thét xung phong, /
Rung cờ đại hội.
C̣n cháy bên ḷng, / C̣n
vọng núi sông. [có thể thiếu 1 câu]
Giờ đây sùng sục
máu hồng cuộn trôi.
Trăng có sáng
phương trời rạng đông.
Gió có reo lồng lộng
đêm nay. / Cho ta nhắn bạn câu nầy:
Nhớ nhau xin chặt
đầu Tây cho nhiều.
Rồi đây ta vỗ
gươm reo. / Lũ ta nghèo súng không nghèo chiến công.
Rồi mai mốt cờ
tung chiến thắng, / Ta gặp nhau đầm ấm làm
sao !
Gươm thề
chẳng hẹn lời trao. / T́nh xưa đại hội
ai nào quên ai ...
Đêm đă gần phai. /
Trăng kia đă ngả bóng dài ngang sân". (Vô danh) (11)
Về
Truyện và kư có Đôi mắt, Ở rừng, Đợi
chờ, Truyện biên giới của Nam Cao, Du kích huyện
của Tô Hoài, Làng của Kim Lân, Đường Vui, T́nh
chiến dịch của Nguyễn Tuân, Đất
nước yêu dấu, Đêm giải phóng của Nguyên
Hồng, Thư nhà của Hồ Phương, Xung kích
của Nguyễn Đ́nh Thi - được xem như là
truyện dài đầu tiên thực địa về
cuộc kháng chiến - những giao tranh ở chiến
dịch Vĩnh Yên. Trong Đôi Mắt (1948), Nam Cao nói
đến thay đổi nhăn quan, bỏ con mắt thờ
ơ việc nước mà mang lấy đôi mắt
của nhân dân; nhân vật chính, nhà văn Hoàng, từ
một người "trí thức nửa mùa",
"chỉ tài chửi đổng", "chẳng yêu
một cái ǵ", giỏi buôn bán chợ đen, thích
đọc Tam quốc, nuôi chó dữ, đă tự thắng
bỏ cũ theo nếp sống mới, kháng chiến! Nhà
văn yểu mệnh này ghi trong nhật kư Ở Rừng
(1948): "cách mạng đă đổi hẳn óc ḿnh, kháng
chiến chẳng những làm già dặn thêm khối óc
đă đổi mới kia, c̣n thay đổi ngay chính
bản thân ḿnh...".
Bên
cạnh thơ văn trữ t́nh lăng mạn là thơ văn
chính luận, loại dùng để kết tội, xử
lư, ... tuyên truyền cổ vơ cho một mục-đích, ư
hướng, có khi không hẳn phải là văn-học yêu
nước, những 'thơ văn' minh họa những anh
bộ đội, v.v. Thơ văn đấu tranh
cộng-sản tức thứ văn thơ mà đảng
cộng-sản đề cao và gọi là cách-mạng yêu
nước. Tính chiến đấu trở nên
thường trực, phải là phẩm chất hàng
đầu của nền văn nghệ, cũng là tính
Đảng. Một thứ thơ văn đấu tranh
với đề-tài, mục-đích dù sao vẫn là
những thứ ngắn hạn, mang tính thời sự,
Đề-tài cưỡng ép do đó đưa đến
những bài bản không giá trị văn-chương và
không sống măi với thời-gian. Nhà văn viết
tuyệt đối theo tư tưởng Đảng
nhưng với ngôn-ngữ của nhà văn. Nhân vật,
chủ đề th́ theo h́nh tượng điển h́nh
(h́nh tượng Tổ quốc, bộ đội anh hùng,
nhân dân anh hùng, v.v.). Những nhà văn chân chính, đích
thực hay muốn là lương tri của thời
đại, có lúc cũng phải dằn vặt. Có
người như Hoài Thanh đă phải phủ nhận
công tŕnh Thi Nhân Việt Nam của ḿnh. Nhân Văn Giai
phẩm là một thí dụ điển h́nh nhưng xảy
ra sớm do đó các văn nghệ sĩ sớm cất
tiếng ư thức đă phải khốn khổ phần
đời c̣n lại. Ngay quan chức như Nguyễn
Đ́nh Thi đă phải viết hai vở kịch Con nai
đen và Nguyễn Trăi Ở Đông Quan mà nhiều năm
sau mới dám công khai nhắc đến như những
vở kịch vạch trần sự nói dối.
Những
Hội Văn Hóa Cứu quốc (9-1945), Văn Nghệ
Việt Nam (1948) được thành lập, những
tạp chí Tiền Phong, Văn Nghệ, Lúa Mới, Cứu
Quốc Việt Nam, v.v. được ra mắt,
để hổ trỡ cuộc kháng chiến. Báo-chí
được chiếu cố, phát hành từ trung
ương Hà-nội đến tận cùng các bưng
biền cả ba miền. Trong khắp các liên-khu, v́ vai tṛ
của văn nghệ sĩ được đề cao
nên họ bị theo dơi và chỉ đạo. Văn-học
trở nên tập trung và được gọi là
"văn-học cách mạng", chủ đạo và chi
phối hết mọi ngành sinh hoạt; những tư
tưởng bị gán nhăn "tư sản, phản
động" bị loại trừ và kiểm
điểm. Bản Đề-cương về văn-hóa
Việt Nam (1943) được đem ra học tập và
áp dụng và những Đại hội văn-hóa toàn
quốc (lần 1, 12-1946) liên tục kiểm thảo,
định hướng! "Nền" văn-học cách
mạng ở các liên khu kháng chiến này trở nên cao
độ sau 1948. Trong Nam, các chiến khu có những tờ
Vệ Quốc (1946), Lá Lúa, Tiếng Súng Kháng Địch,
Tổ Quốc, Tiền Đạo, Cứu Quốc, Nhân Dân
Miền Nam (với phụ trương Tiểu Thuyết
Nhân Dân), Văn Nghệ Miền Nam, ... phát hành đều
đặn, nội-dung gồm những bài thơ văn,
truyện ngắn, tùy bút và nghị luận, thông tin, tuyên
truyền. Nhiều "nhà văn" như Anh Đức,
Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành,... xuất thân và xuất
hiện đều đặn trên các báo tuyên truyền này.
Để cổ động và tuyên truyền mạnh
hơn, giải văn-nghệ Cửu Long đă
được lập ra (Sơn Nam từng được
giải này về truyện ngắn Tây Đầu
Đỏ). Tiếp là cuộc chiến "chống
Mỹ", giải Nguyễn Đ́nh Chiểu
được lập ra từ 1965 để thưởng
công những cây viết đă đạt được
những tiêu chuẩn đề ra của
"chủ-nghĩa anh hùng cách-mạng Việt-Nam của
văn-học chống Mỹ", một "nền"
văn-học có "đặc điểm thống
nhất" là "sự lănh đạo chặt chẽ
của Đảng", như Từ Tuyến Đầu
Tổ Quốc, tập thư của một miền Nam
chống Mỹ!
Kịch
thơ và kịch nói là những thể loại
được sử-dụng nhiều trong giai đoạn
kháng chiến. Từ 1945, ở Sài-G̣n đă có kịch
thơ của nhóm Hoàng Mai Lưu (Hội nghị Diên
Hồng, Đêm Lam Sơn, Mê Linh, ..), Tây Thi Gái Nước
Việt của Hoàng Mai (Mai Văn Bộ), Giặc Cờ
Đen của Ninh Huy, v.v.
Văn-học
kháng-chiến dưới sự chỉ đạo và
điều động của cộng-sản miền
Bắc nay dần trôi vào quên lăng sau những đợt ghi
lại lịch-sử và đề cao, nay mảng con rơi
1945-1950 của miền Nam th́ lại được nói
đến nhiều hơn. Tuy nhiên văn thơ do chỉ
thị và chiến dịch giai đoạn th́ giá trị
văn-chương không có mà sự hiện diện của
chúng cũng không bền lâu. Một cây viết của
kháng-chiến thời này là Đoàn Giỏi sau này đă
kiểm điểm như sau: "Truyện Cá Bông Má (1952)
của tôi đă được viết đúng như
chủ trương, mặc dù hồi đó viết như
vậy tôi thấy cũng đă là "dám" vượt
ra khỏi khuôn khổ quá xa rồi. Yêu cầu chỉ có
cốt truyện, không cần tả cảnh, cảm xúc.
Truyện như vậy, bây giờ tôi không muốn nh́n
lại nó nữa, hoặc có đọc lại th́ tôi không
khỏi thấy buồn cười". Đoàn Giỏi
phê b́nh cả những truyện thơ và kịch
được giải thưởng Cửu Long thời
kháng-chiến, "những tác-phẩm này bây giờ
đọc lại thấy b́nh thường thậm chí có
khi c̣n rơi vào tự nhiên chủ nghĩa (...) Chỉ có
những chuyện của Sơn Nam bây giờ đọc
lại vẫn c̣n thấy xúc động" (12). Bạn
ông, Bảo Định Giang, 'tác-giả' nhiều tập
'ca-dao kháng-chiến', nổi tiếng với hai câu 'ca
dao':"Tháp Mười đẹp nhất bông sen /
Việt-Nam đẹp nhất có tên bác Hồ".
Nh́n chung,
văn-học thời kháng chiến 1945-1954, với mục
đích khẩn cấp, cấp thời, đă là những
công tŕnh b́nh thường về phương diện
văn-chương hay thẩm mỹ học. Đăi lọc
th́ cũng có được một số tác-phẩm
văn-chương như Chiến Sĩ Hành, Cây Ná Trắc
của Vũ Anh Khanh, Sương Gió Biên Thùy của Lư
Văn Sâm, Vó Ngựa Cầu Thu, Người Yêu Nước
của Thẩm Thệ Hà, Tàn Binh của Sơn Khanh, v.v. Các
lư thuyết văn-nghệ cũng có như đă tŕnh bày,
nhưng chưa qua thử thách và không có dịp thảo
luận b́nh thường và công khai. Nhiều nghiên cứu và
lư luận như tập Văn Học Kháng Chiến
Chống Pháp 1945-1954 của Phong Lê, Vũ Tuấn Anh và
Vũ Đức Phúc (1986) phê phán gay gắt và gần như
phủ nhận thơ văn kháng chiến một cách
"bộc phát" ở các thành phố và khu kháng chiến
miền Nam không theo lập trường và chỉ
đạo của đảng - họ phân biệt hai
loại văn-nghệ sĩ "cách-mạng" và
"tiến bộ". Ngay cả người từng
được guồng máy đảng đề cao như
Lư Văn Sâm cũng bị "đánh giá lại". Trên
tờ Văn Nghệ Đồng Nai số 7 (1981) của
Hội văn-nghệ tỉnh Đồng Nai (mà Lư Văn
Sâm là chủ tịch): "Tiếc rằng tác-giả
để ng̣i bút của ḿnh bị những chi tiết ly
kỳ gây cấn, những cảnh ngộ éo le ngang trái
dẫn đi khá xa, đến nỗi những t́nh cảm
yêu nước bị ch́m ngập trong không khí
đường rừng phiêu lưu mang nặng màu sắc
lăng mạn. V́ thế những nhân-vật của anh dù có
nhiều đúc tính dũng cảm, phóng khoáng, cao
thượng, trọng danh dự, cuối cùng cũng
đều chịu một kết cuộc bi thảm, có khi
kết cuộc bi thảm đó lại do chính những
đức tính kia gây nên. Do tánh chất lưỡng phân
đó, nên nhân-vật của anh chưa phải là
nhân-vật tích cực theo đúng ư nghĩa của nó,
cũng chưa phải là điển h́nh cho con người
mầm mống của tương lai"(13).
Trong
thời kháng chiến 1945-1954, miền Bắc đề ra
những chính sách 'dân-tộc mới, cách mạng, khoa
học và tiến bộ' để chống lại
những cái mà họ gọi là 'chủ nghĩa vong bản'
(có khi c̣n gọi là 'chủ nghĩa thế giới') cũng
như chủ nghĩa dân-tộc của người
quốc-gia và tự do là 'chủ nghĩa dân-tộc hẹp
ḥi' (14). Trí thức vong bản, văn-nghệ sĩ vong
bản, kinh tế vong bản, cả nông dân cũng vong
bản (thích nghe tân nhạc, v.v.), ... tất, nếu không
xuất thân từ chính sách, đề-cương và ḷ tôi
luyện của họ, đều là vong bản,
đều không phải là tác-phẩm 'tốt', khán giả
'tốt'! Nhà văn ở những vùng họ gọi là 'vùng
địch kiểm soát' nếu viết lên t́nh yêu
đất nước vẫn bị những kẻ giáo
điều miền Bắc phê phán là 'khách quan tư sản'
và 'thiếu lập trường' nên không có nội-dung,
chỉ trọng h́nh thức chủ nghĩa - thật ra v́
nội dung và lập trường không theo ư họ và
văn-nghệ cách mạng vô sản không quư h́nh thức
văn-chương! Họ muốn đồng thời
đẩy mạnh đấu tranh giai cấp, mà ở
miền Nam lục-tỉnh cũng như miền Nam tự
do, vấn-đề giai cấp không trầm trọng
như ở miền ngoài! Nhưng một thiểu số
người (sĩ có, nông có) trong Nam có cái Tôi quá cao nên đă
bị chế độ miền Bắc sử dụng trong
kháng chiến chống Pháp cũng như các MTGPMN, nằm
vùng, nhị trùng, phản thùng, v.v.
Tinh
thần ái-quốc ở miền Nam đă được
biểu lộ dưới nhiều h́nh-thức: ái quốc
cảm tính, lỗi thời, hiệp sĩ, nên bị
lợi dụng; ái-quốc khoáng đạt, do đó dễ
rơi vào sai lầm, bị lợi dụng.
Văn-chương yêu nước và kháng-chiến 9 năm
dù vậy đă góp phần đánh động ḷng yêu
nước, chống thực dân và đă là một phần
tích cực của công cuộc kháng-chiến đó. Từ
miền Nam văn-chương kháng-chiến đă trỗi
lên, trong năm năm, 1945-1950, đă thành công khơi dậy
và đi những bước đầu cho đại
cuộc. Công việc văn-chương và cổ
động đó đă được người
đọc đón nhận một cách tích cực và hiển
nhiên: văn-chương cảm hóa được ḷng
người, một thứ văn-chương dấn thân,
không những ư t́nh tác-phẩm chuyên chở mà nhiều
tác-giả đă thật sự dấn thân. Không những nhà
văn thơ nhập cuộc mà cả nhà giáo, nhà báo và trí
thức đủ ngành sinh hoạt (luật sư,
thương gia, ...).Tất cả đă đồng
loạt, mỗi người một con đường,
phương pháp, tố cáo chế độ thực dân và
cùng kết luận chỉ có một con đường
cứu nước là đánh đuổi thực dân Pháp. Giai
đoạn 1950-1954, đảng cộng-sản Việt-Nam
dần nắm quyền điều khiển cuộc
kháng-chiến, văn-chương trở vô các liên khu,
từ Việt Bắc đến Đồng Tháp
Mười, h́nh thành một thứ văn-học
cách-mạng có tính đảng và giai cấp. Nhà văn Xuân
Tước trong Hồi Kư 60 Năm Cầm Bút, đă kể
lại kinh nghiệm mắt thấy tai nghe về
kháng-chiến thời 1945, về những công tác
văn-nghệ kháng-chiến ở nhiều Khu và các thành
phố, như phe cộng-sản lấn chiếm những
trại huấn luyện và đoàn Thanh Niên Cứu Quốc
của kháng-chiến, như các lănh đạo kháng-chiến
ở Bắc (Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, ...) vào
điều khiển cuộc kháng-chiến trong Nam.
Các
đảng phái quốc gia, dưới danh nghĩa chung
Việt Minh lúc đầu kháng chiến, đă có những
chiến khu, sau Việt Minh bị cộng sản hóa, các
lực lượng quốc gia người bị tàn sát,
người phải thiên sang đất Trung quốc,
người về thành. Những năm 1946-1949,
văn-nghệ sĩ theo kháng chiến về những
chiến khu Việt Bắc, v.v. Hà-nội bị 'bỏ
trống' do đó không thật sự có sinh hoạt trí
thức và văn-nghệ. Từ khoảng năm 1950,
tức từ khi có những vụ 'dinh tề' th́
văn-nghệ ở thành bùng lên, ở Hà-nội một
số nhóm văn-nghệ như nhóm Thế-Kỷ (tên
tờ tạp-chí của nhóm gồm Bùi Xuân Uyên, Triều
Đẩu, Tạ Tỵ, ..) chống kháng-chiến
dưới sự chỉ đạo của đảng
cộng-sản, nhưng cũng không hợp tác với Pháp, họ
đi t́m một chủ nghĩa dân-tộc khác, một cách
xây dựng 'tiêu cực', qua văn thơ và báo-chí. Trong
số những nhà văn viết cho các báo và tạp-chí
xuất-bản ở Hà-nội có thể ghi nhận Mặc
Thu (Băo Biển, 1951), Trúc Sĩ (Kẽm Trống), Triều
Đẩu (Trên Vĩa Hè Hà Nội), Nguyễn Thạch Kiên
(Hương Lan, 1951), Ngọc Giao (Quán Gió, Mưa Thu,
Đất, ...), ... chống kháng chiến cộng-sản,
Hoàng Công Khanh (Trại Tân Bồi), Sao Mai (Ánh Mắt Mùa Thu 1952,
Nh́n Xuống 1953) day dứt thân phận làm người
Việt-Nam thời nhiễu loạn. Bên cạnh có
văn-chương đô thị, lăng mạn với
những Thanh Nam , Nguyễn Minh Lang, Vũ Đ́nh Trung
(Đồi Thông Hai Mộ), ... Có nhà văn thuộc quân
đội quốc-gia như Kỳ Văn Nguyên (Những
Kẻ Sống Sót, 1950), Nguyễn Ái Lữ (Sóng Gió, 1952), Huy
Quang (Ngày Anh Trở Lại, 1951, Đôi Ngă, 1953), ... Phần
lớn các tác-giả này, cũng như kịch giả Hoàng
Như Mai với Tiếng Trống Hà Hồi (diễn ở
vùng tề Hà-nội 1952, Vũ Khắc Khoan đạo
diễn) đă dóng lên những tiếng nói yêu nước
khác, không thuộc ḍng kịch kháng-chiến chủ tŕ ở
trong các Liên khu, phần c̣n lại diễn tả quan
niệm sống trong thời chinh chiến!
Thời
này, một số nhà thơ miền Trung xuất-hiện và
dần vững bước thời văn-học miền
Nam sau 1954, như Đỗ Tấn, Diên Nghị, Thanh Thanh,
Thế Viên, Tạ Kư, v.v. Thơ yêu nước và
kháng-chiến có mặt nhưng yếu hơn trong Nam dù
về mặt văn-chương có nhiều nỗ lực
sáng tạo. Một Hồ Hán Sơn (kư Trần Hồng Nam):
"Nhớ
thuở / Anh cày thuê
Em chăn trâu / Bóng mát
dưới cầu / Quen nhau ...
(...) Bao giờ / Giặc
chết trên ngàn / Giặc tan ngoài bể
Nhớ lời em nhé / Và cánh
đồng quê
Dù không may / Anh cứ
về
Ai chê người
đuổi giặc / Ai ghét kẻ thương binh
C̣n làng, c̣n nước, c̣n
anh
C̣n đồng ruộng
cũ, c̣n t́nh lứa đôi
Em vui / Nước nhà
độc lập / đường quê tấp nập / Trai
tráng về làng
Hai mùa lúa chin ngô vàng hơn
xưa (T́nh Nghèo, 1952)
Không xa
một Kiên Giang Hà Huy Hà của T́nh Quê T́nh Nước -
được ghi là sáng tác khi th́ năm 1954 khi 1955, v́ ư
những câu chót đă/sẽ khác :
"... Quê
hương là máu, là xương thịt, / Nước
mắt mồ hôi của giống ṇi,
Tranh đấu từ bao
nhiêu thế kỷ, / Bảo tồn gấm vóc đến
muôn đời .
C̣n sống ngày nào trên
đất nước, / Nếu ai xâm chiếm đến
quê hương,
T́nh quê sẽ xoá ra t́nh
nước: / T́nh nước đúc thành súng với
gươm.
Ḷng dân vơ trang bằng t́nh
cảm, / Tay dân vơ trang bằng súng đạn.
Dân đứng lên siết
chặt quân hàng: / Giặc vào đây giặc sẽ ră
tan..."
Dù ǵ th́
lịch sử đă ghi rằng quân đội viễn chinh
Pháp rút hết ra khỏi Việt Nam ngày 25-4-1956. Nhà thơ
đại tá Cao-đài Hồ Hán Sơn đă có bài thơ
“Tiển đoàn quân viễn chinh Pháp” được in trên
vài nhật báo Sài G̣n một hôm trước khi toán quân
cuối cùng của Pháp xuống tàu rút quân vĩnh viễn.
Tác giả của bài thơ này tuy kư là Vô danh nhưng về
sau được biết là Hồ Hán Sơn. Có lẽ bài
thơ này là tác phẩm cuối cùng của Hồ Hán Sơn,
v́ không lâu sau đó ông mất tích. Một người
bạn của ông đă xác nhận như vậy!
"Ánh
hồng chói rạng chân trời mới / Ngọn lửa
đao binh tắt lịm rồi
Có kẻ chiều nay
về cố quận / Âm thầm không biết hận hay vui
Chiều nay, / Kèn kêu
tức tưởi nghẹn lời
Tiếng ngân xúc
động dạ người viễn chinh
Chiều nay trên nghĩa
địa / Có một đoàn tinh binh
Cờ rũ và súng xếp
/ Cúi đầøu và lặng thinh
Âm thầm giả biệt
người thiên cổ / Đất lạ trời xa
sớm bỏ ḿnh
Thịt nát xương tan
hồn thảm bại / Ngh́n năm ôm hận cỏi u minh
Hởi ơi làm lính
viễn chinh / Chiều nay bước xuống tàu binh
trở về
Tàu xúp lê, tàu xúp lê / Cửa
Hàm Tử lao xao sóng gợn
Bến Bạch
đằng lởn vởn hồn quê / Bước đi
những buớc nặng nề
Ngày đi không biết ngày
về không hay
Một ngàn chín trăm
năm sáu / Một ngàn tám trăm sáu hai
Giật ḿnh bấm đốt
ngón tay / Trăm năm một giấc mộng dài hăi kinh
Ngày anh đến đây,
/ Cửa Đà nẵng tan hoang v́ đại bác
Xác anh hùng, Đinh Lư
gục đâu đây
Giữ Gia Định, Duy
Ninh liều mạng thác
Ôm quốc kỳ tử
tiết giữa trùng vây
Phan Thanh Giản ngậm
hờn pha thuốc độc
Bởi xâm lăng
chẳng nhượng nước non nầy
Và Thăng long máu ḥa ba
thước đất
Mất kinh thành Hoàng
Diệu ngă trên thây
Hởi ơi xương
máu vẫy đầy
Chân anh dẫm đến
nước nầy tóc tang
Tay gươm, tay súng /
Bước nghênh, bước ngang
Anh bắn, anh giết /
Anh đập, anh vằm
Anh đày Bà Rá Côn Loan / Anh
đoạn Sơn La Lao Bảo
Anh đoạt hết
cơm hết gạo / Anh giựt hết bạc hết
vàng
Chém đàu ông lăo treo hàng
thịt / Mổ mật thanh niên giữa chiến tràng
Cối quết trẻ
thơ văng máu óc / Phanh thây sản phụ ném vào than
Con ĺa mẹ, vợ ĺa
chồng / Cây hết trái, nhà trống không
Người ch́m đáy
biển, người tấp ven sông
Người ngă trên núi,
người gục trong rừng
Đây Cà Mau, đó Nam Quan
/ Thôi rồi mảnh đất Việt Nam
Hung hăng anh bóp trong ḷng
tay anh
Nước tôi đang
độ yên vui sống / Mít ngát hương mùa bưởi
ngọt thanh
Cỏ nặng t́nh quê khoai
mến đất / Không thương nhau lại giết
nhau đành
Cắn răng tôi chịu
cực h́nh / Vuốt râu anh hưởng công tŕnh của tôi
Nhưng thôi, / Hận thù
kể măi bao giờ dứt,
Bút mực làm sao tả
hết lời / Nói măi nói hoài thêm tủi nhục
Linh hồn thơm ngát
tổ tiên tôi / Bao năm chiến đău ta hiểu nhau
rồi
Cái ǵ tàn ác và bạo
ngược / Là trái ḷng dân nghich ư trời
Sắt thép tinh ṛng binh
tướng dữ / Không sao thắng được trái tim
người
Anh về là phải anh
ơi / Về bây giờ để cho đời nhớ anh
Việt nam nước
của tôi / Sông sâu đồng rộng / Trái tốt hoa
tươi
Hà Nội kinh thành tràn
sĩ liệt / Sài Côn đô thị rạng anh tài
Phú Xuân bừng chói
gươm ưu quốc / Nghĩa nặng t́nh thâm vạn
thuở nay
Việt nam nước
của tôi / Già cũng như trẻ
Gái cũng như trai /
Chết th́ chịu chết
Chẳng cúi ḷn ai / Tham lam
ai muốn vô xâm chiếm
Th́ giặc vào đây
chết ở đây
Dù ai cắt đăt chia hai
/ Cho trong than thở cho ngoài thở than
Dù ai banh ruột xé gan / Cho
tim xa óc cho nàng xa tôi
Th́ anh cứ nhớ một
lời / Ngày mai thống nhất liền đôi bến
bờ
Anh về nước Pháp
xa xôi / Chắc anh bao giờ quên được
Những là
đường đi nước bước / Những là
tên tuổi Việt nam
Suối Yên Thế tuôn tràn
hậm hực / Đất Thái Nguyên câm tức nổi
vồng
Tháp mười hận
nước mênh mông / U Minh mấy trận băo ḷng chưa
nguôi
Bao giờ tôi chẳng
nhớ / Nước Pháp rộng bao la
Cốt-Da-duya người
thanh và cảnh lich / Bờ Mạc-xây xinh đẹp
nhất sơn hà
Khí sông núi đúc nhiều
trang tuấn kiệt / Bậc anh hùng cứu quốc
Rốp, Gian-đa
Tôi nhớ măi một ngày năm
tám chin / Anh vùng lên phá ngục Bát-ti nhà
Anh giải thoát cho
giống ṇi đươc sống / Được yên vui
trong đệ tứ cộng hoà
Anh vui anh sướng anh
hát anh ca/ Tôi là người ở phương xa
Ngày anh xán lạn cũng
hoà niềm vui
Thôi, / Đă đến
giờ chia tay cách biệt / Anh rời nước Việt
vừa tủi vừa mừng
Bên nhà vợ đợi
con trông / Vắng anh t́nh mặn nghĩa nồng cũng phai
Tàu xúp lê một, tàu xúp lê
hai / Bắt tay anh nhé anh về nước
Biển lặn trời êm
nhớ lấy ngày / Và chẳng bao giờ quên chiến
đấu
Cho ai đừng dến
doạ đày ai
Bóng ngă trời tây, gió
lồng biển cả / Phút giây từ giả
Trang sử trăm năm
/ Tàu anh rời bến Việt nam
Hăy xuôi một ngả
một đường mà đi / Xin tàu đừng ghé
bắc Phi
Sóng to gió lớn chắc
ǵ đến nơi / Đừng oan trái nữa tàu ơi
Hảy xuôi về
nước cho người hát ca / Anh về mạnh
giỏi ô-voa".
3.
Chiến tranh 1957-1975:
Đảng
cộng-sản Việt-Nam giành độc quyền từ
những thành phần yêu nước không cộng-sản,
giành giơ cao ngọn cờ "yêu nước" v́
mưu lược kế hoạch lâu dài và tuân theo chủ
nghĩa quốc tế. Miền Bắc cộng-sản
muốn xích hóa cả nước Việt-Nam, do đó đă
ư đồ chiếm miền Nam bằng vơ lực, ngay
từ khi tiếng súng tạm ngưng với hiệp
định Genève tháng 10-1954. Đề tài cải cách
ruộng đất sôi nổi ngay từ 1953-1954, những
năm cuối cuộc kháng chiến, nay rầm rộ
lớn rộng, lên tiếng tố cáo, đấu tố và
đấu tranh giai cấp. Trong những năm 1955-64, nhà
văn miền Bắc viết lại kinh-nghiệm
kháng-chiến chống Pháp và tỏ ḷng thương miền
Nam đưa đến mảng văn-học động
viên đấu tranh song song với các chiến dịch
Đồng Khởi và MTGPMN; nhưng cũng là thời
của những vết thương Trăm Hoa Đua
Nở, Nhân Văn giai phẩm!
Sự
thành lập MTGPMN năm 1960 là sản phẩm của Hà
Nội, nhưng sự tham gia nhiệt t́nh của một
số người Nam theo thiển ư cũng là sự
nối dài tinh thần đạo lư b́nh dân. Lịch sử
là chuyện của lịch sử tập thể, nhưng
ở đây chúng tôi nêu lên như một cắt nghĩa!
Người miền Nam mở ḷng yêu nước ra và
người Cộng sản đă lợi dụng, hay có
thể nói thêm rằng mọi người đều
nghĩ lợi dụng thời cơ, tổ chức
để thi thố, thực hiện ḷng yêu nước, và
trong mọi chiến thuật và t́nh huống, đă có
người thua kẻ thắng, có kẻ lợi dụng có
kẻ ḷng ngay! Có thể nói người kháng-chiến
miền Nam nếu có chung mừng "Cách-mạng Tháng Tám,
Chiến Thắng Mùa Thu" nhưng có thể không ca
mừng "chiến thắng Điện Biên Phủ"
như người miền Bắc. Tết Mậu Thân 1968
là một thử nghiệm của guồng máy chiến-tranh
miền Bắc, nhưng với người bên này vĩ
tuyến 17, là một cơ hội để bạn thù có
dịp phân minh, để những thành phần nằm vùng
lộ mặt thật. Văn thơ phản chiến đă
nở rộ ở các đô thị miền Nam, một
phần phản chiến tự giác, phần kia nằm vùng
và Cộng sản.
Thời
chiến-tranh xâm chiếm miền Nam, là văn nghệ
hiện thực phản ánh, xây dựng những h́nh
tượng và t́nh cảm chống Mỹ, nguỵ. Văn
học minh họa, các tác phẩm giống nhau, lẩn
quẩn hiện thực, mỗi công tŕnh là như một
ḥn đá xây chung bức tường cách-mạng một màu
một kiểu:
"Dẫu
một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn ngh́n trang giấy
luận văn chương" (Tiễn Bạn, Tố
Hữu)
Tác-phẩm
nào ra ngoài quỹ đạo chính thức sẽ bị phê
(và đến nguy hiểm cho nhà văn) là "lệch
lạc", là "hoang mang, hoài nghi, giao động"
về cái gọi là "chiến thắng tất yếu
của cách-mạng": từ các nhóm Nhân Văn Giai
phẩm đến xét lại, v.v. Con chữ và lời, ư yêu
nước dễ mang vạ vào thân!
Những
nhà văn lớn ở tận trung ương đă
phải tham dự việc hiện thực phản ánh, xây
dựng những h́nh tượng và t́nh cảm chống
Mỹ, 'nguỵ'. Tố Hữu (Miền Nam, Máu Và Hoa,
Nước Non Ngàn Dặm, Theo chân Bác, Xuân 68, v.v.), Xuân
Diệu (Tôi giàu đôi mắt), Chế Lan Viên (Những bài
thơ giết giặc, Những Ngày Nổi Giận,
Nhớ lấy để trả thù, Chim báo băo, ...), Huy
Cận (Chiến-trường gần đến
chiến-trường xa), Thâm Tâm (Căm thù, Đầu Quân,
Lá Cờ Máu), Trần Huyền Trân (Soi Đường),
Nguyễn Huy Tưởng (Bắc Sơn), v.v., nói chung không
mấy giá trị văn-chương (của thời
trước đó) v́ mục đích trước mặt và
nhu cầu cấp thiết. Tố Hữu ngồi ở
Bắc bộ phủ gửi thơ vào "miền Nam trong
lửa đạn, sáng ngời. Hà-nội, ngày 11-12-1963"
như ghi ở cuối bài trong tập thơ Miền Nam
được Ban tuyên truyền thành Đà-Nẵng in
năm 1967 và người lính cộng ḥa đă có thể
tịch thu được trên xác người bộ
đội sinh Bắc tử Nam, như tập Nhật kư
của Đặng Thùy Trâm:
"... Ôi
Tổ-quốc giang sơn hùng vĩ / Đất anh hùng
của thế kỷ hai mưới!
Hăy kiêu hănh: trên tuyến
đàu chống Mỹ / Có miền Nam : anh dũng tuyệt
vời"
Nhà thơ tay làm thơ tay
cầm súng lục:
"Ai tạc chúng ta lúc
này xin hăy tạc lời căm / Có những căm thù là
hạnh phúc
Mặt ta rạng rỡ
hào quang, tay ta hồng hào sinh lực / Có ǵ đâu ta sắp
được giết mày'
Hay: " ... Ta đánh
Mỹ vậy th́ ta tồn tại"
Chế Lan
Viên triết lư về hận thù, hăng đến
độ triệt để: "Dĩ văng buồn
thương mang lá cờ đen / Đến làm giặc
giữa ḷng ta, ta bắn chết... ". Đem cả
tiền bối Nguyễn Du ra để chống Mỹ:
"Gặp Nguyễn nơi đây trên đất Quảng
B́nh / (...) Đêm thắng giặc Bảo Ninh, mẹ
Suốt ngâm Kiều / Nhật Lệ sông dài thuyền mẹ
lại qua / Câu thơ Nguyễn cũng góp phần đánh
Mỹ ...". Thơ như vậy được
đề cao là thơ chính luận, chi phối bởi
cảm quan 'sử thi', nghĩa là trở thành tuyên truyền
và thời sự! Yêu nước (được
đổi thành Tổ quốc) bây giờ trở thành yêu xă
hội chủ nghĩa!
Trẻ
cũng được khuyến khích làm thơ chống
Mỹ, với những cuộc thi thơ. Lâm Thị Mỹ
Dạ :
"Tôi
nh́n xuống hố bom đă giết em / Mưa đọng
lại một khoảng trời nho nhỏ
Đất nước
ḿnh nhân hậu / Có nước trời xoa dịu vết
thương đau
(...) Có phải thịt da
em mềm mại trắng trong
Đă hóa thành những làn
mây trắng? " (Khoảng trời hố bom)
Thời
này xă hội cũng như văn nghệ được
Đảng lănh đạo chặt chẽ, văn học
trở nên thống nhất, thành minh họa, không cá tính.
Đường lối văn-nghệ cách-mạng qua các
văn kiện của Đảng: văn-nghệ có
nhiệm vụ chủ yếu động viên nhân dân
đánh đuổi thực dân bảo vệ
tổ-quốc; phương-pháp sáng tác hiện thực
xă-hội chủ nghĩa, phản ánh cuộc song hiện
thực như là đúng hướng đi của
lịch-sử . Về nghệ-thuật phải điển
h́nh hóa cao độ. Văn-học chiến-tranh phục
vụ nhiệm vụ chính-trị của từng giai
đoạn cách-mạng, mỗi thời theo những
định hướng của tư tưởng chính
trị có tính cách chiến lược của giai
đoạn, từ chủ đề, nội dung và cả
phương pháp sáng tác! Để đạt được
mục đích thống nhất đất nước,
thời 1957-1975, tiền tuyến nay ở trong Nam và
phải thắng cho được 'giặc Mỹ'! V́
thế một bộ phận Đảng vào Nam, mà các
văn nghệ sĩ cũng phải vào Nam đi 'thực
tế' để có thể hoàn thánh sứ mạng mới.
Các 'tác phẩm' làm ra trong cuộc chiến chưa
đủ, sau 'hoà b́nh thống nhất', các nhà văn thơ
vẫn phải tiếp tục 'nền' văn học
cách-mạng chống Mỹ, v́ 'giá trị của
văn-học chống Mỹ trước hết là giá
trị lịch-sử của nó' (15)
. Văn
truyện được tung ra, những Nguyễn Thi
(Từ tuyến đầu tổ-quốc, Người
mẹ cầm súng, ..) , Hồ Phương (Kan Lịch), Phan
Tứ, Nguyễn Sáng, Nguyễn Trung Thành (Rừng Xà-nu,
Đất nước đứng lên, ), Trần Hiếu
Minh, Trần Đ́nh Vân (Sống như anh), Anh Đức
(Ḥn Đất), Nguyễn Đ́nh Thi (Vào Lửa), Chế Lan
Viên (Những Ngày Nổi Giận), Nguyễn Minh Châu (Dău Chân
Người Lính, Cửa Sông), ... Nhân vật Lữ của
Nguyễn Minh Châu trong Dấu Chân Người Lính
được xây dựng trên nền tảng anh hùng ca và là
một người lính quá lư tưởng. Con tim yêu
nước sang ngời nhưng người đọc
không một lần biết được con tim t́nh
cảm của anh hùng Lữ! Nhà văn Nguyên Ngọc
dưới bút hiệu Nguyễn Trung Thành từ Bắc vào
Nam tham gia cuộc chiến chống Mỷ và đă viết
nhiều truyện và tiểu-thuyết; các nhân vật
của ông "đều đă cầm súng chiến
đấu từ một ḷng căm thù, từ ư chí tiêu
diệt giặc để bảo vệ cuộc sống và
hạnh phúc" - không biết những tấm ḷng và ư chí
đó thật sự ra sao, hay chỉ là mỹ từ?
Hăng quá rơi vào cường điệu cương:
nhân vật Chị Út trong Người Mẹ Cầm Súng
của Nguyễn Thi có những câu bất hủ như
"C̣n lại cái quần cũng đánh! (...) Đánh
giặc sướng bằng tiên chớ cực ǵ!". Hai
nhân vật chính của Mẫn Và Tôi (1972) của Phan Tứ
là Mẫn và Thiêm theo sách giáo tŕnh của Nguyễn Bá Thành và
Bùi Việt Thắng là "hai ngôi sao sáng trên nền trời
đầy sao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng toàn
dân" (16). Chỉ là những sử thi của những
nhân vật tiền chế, không dấu vết con
người thật, có suy nghĩ và t́nh cảm, cùng lẽ
phải, con người với bi hài kịch cuộc
đời!!
4. Thơ
văn yêu nước miền tự do từ sau
đ́nh-chiến tháng 7-1954:
Sau năm
1954, ở trong Nam và nhất là Sài-g̣n hết c̣n nóng lửa
chiến tranh, nhưng cuộc chiến vẫn âm ỉ,
thời lập thuyết đấu tranh ư thức hệ
bắt đầu, những mặt trận văn-hóa, những
Phạm Thái, Thiếu Sơn, Hồ Hữu Tường,...
Thời thơ của những Hồ Hán Sơn, Đỗ
Tấn, Phan Lạc Tuyên, Hà Huyền Chi, Hoàng Trúc Ly, v.v.
xuất-hiện trên các báo và tạp-chí Đời Mới,
Nhân Loại, Mùa Lúa Mới, Nghệ Thuật, v.v. Trong
tập 40 Năm Văn Học Chiến Tranh (1997), chúng tôi
đă ghi nhận tổng quan các sinh hoạt và khuynh
hướng văn-học. Trong khuôn khổ đề tài
yêu nước, chúng tôi nghĩ có thể thâu tóm trong 3 khuynh
hướng văn-học: yêu nước chống
Cộng; yêu nước/ kháng-chiến thành và thiên tả và
nằm vùng.
Những
năm đầu sau 1954, nói chung, các tác-giả viết
để ôn quá khứ, rút kinh nghiệm và xây dựng
một miền Nam tự do, dân chủ. Tác-phẩm của
những Kỳ Văn Nguyên, Nguyễn Mạnh Côn, Doăn
Quốc Sỹ, Triều Lượng Chế, Đỗ Thúc
Vịnh, Trần Lê Nguyễn, Vơ Phiến , v.v. lấy
chất liệu từ cuộc đời dấn thân
kháng-chiến của những thanh niên thời chiến. Có
người sử-dụng văn-chương cho
chính-trị, lập thuyết, đao to búa lớn nhưng
phần lớn làm văn-chương b́nh thường. Phan
Lạc Tuyên qua bài T́nh Quê-Hương:
"Anh
về qua xóm nhỏ / Em chờ dưới bóng dừa
Ánh chiều lên mái tóc / T́nh
quê-hương đơn sơ
(...) Em hẹn em sẽ
kể / T́nh quê-hương đơn sơ
Mẹ già như chiều
nắng / Nhớ con trai chưa về
Ruộng nghèo không
đủ thóc / Vườn nghèo nong tầm thưa
Ngơ buồn mầu hoang
loan / Quê nghèo thêm xác sơ... " (Mùa Hoa Mới, 1956)
Một Hoàng Trúc Ly nhẹ
nhàng:
"Có người anh
không quen / đến tôi nhà im cửa ngơ
Trời mưa phiêu
bạt hoa đèn / Tâm sự nửa chiều cởi mở
Anh kể bài thơ /
Ngổn ngang năm tháng
Thu xưa biền biệt
áo tím kinh kỳ / Nắng không đè nổi vai người
bước đi
đồng núi mênh mang /
Dép ṃn lá rụng / Xóm làng từ buổi thắm loang
Tàn phá đỏ loe
đầu súng / Biết c̣n ǵ nữa ... người anh
Những mái nhà cay
đắng chiến-tranh / Ruộng vườn ai lạnh
lẽo cho đành
Từng vành khăn
trắng như mây trắng / Xuân đến tha hồ
thương tóc xanh
Đại dương
lửa khói mờ nhân ảnh / Sực tỉnh nao nao khúc
độc hành
Lạ lùng anh đến
thăm tôi / Dừng chân mưa bay nhạt lối
Bóng chiều nghiêng
xuống cuộc đời / Anh mỉm cười nghe
đêm tối
Ngày ủng hoa sau lửa
mắt khơi vơi". (Gặp Người Em, 1956)
Một Quách Thoại yêu
dân chủ tự do :
"Chiều
chiến-tranh / Những mẹ già run sợ
Và tiếng sung cối xay
/ Đêm sắp tối rồi
Người ta đang
giết nhau quá mê say
(...) Ngoài kia vùng Bắc
Việt / Nơi kẻ thù tôi
Và đồøng bào tôi /
Đang giết nhau
Hỡi ôi / Đất
nước chia đôi
Nam Bắc hai đầu /
Nh́n nhau mà ruột đứt ..." (Những Buổi
Chiều Việt-Nam).
* * *
Trong
một khảo cứu về nhà văn B́nh Nguyên Lộc
viết năm 1996 (17), chúng tôi đă tŕnh bày qua rằng B́nh
Nguyên Lộc bỏ bưng về thành, làm "kháng chiến
thành". Ông xem văn chương là lương tri của
thời đại, do đó ông đă kiên tŕ trong
đường hướng này. B́nh Nguyên Lộc yêu
nước từ căn bản t́nh yêu đất, yêu làng
quê nơi chôn nhau cắt rún (T́nh Đất 1966, Cuống Rún
Chưa Ĺa 1969,...). Trong tác phẩm, B́nh Nguyên Lộc rơ là có
chủ trương đề cao và ǵn giữ cội
nguồn dân tộc, đề cao t́nh-yêu quê hương,
đất nước, thiết tha với lịch sử
dân tộc - thiết tha đến độ khảo
cứu tận nguồn gốc dân-tộc với bộ
Nguồn Gốc Mă Lai Của Dân Tộc Việt-Nam (1971).
Tác-phẩm của ông mặt khác chứng minh thêm tính
lạc quan, cũng là đặc tính làm nền cho tuần
báo Vui Sống do ông chủ trương năm 1959. Báo Vui
Sống (số 1 ra ngày 9-9-1959) là nơi quần hội
những cây viết thường xuyên là: B́nh Nguyên Lộc,
Sơn Nam, Diên Quỳnh, Nguyễn Ang Ca, Tô Kiều Ngân, Trang
Thế Hy, Thiên Giang, Ngọc Linh, Kiên Giang Hà Huy Hà, Nguyễn
Đạt Thịnh, Hà Liên Tử, Minh Phẩm (TTH), Minh
Đức, Trần Lê Nguyễn, Từ Trẩm Lệ,
Tường Linh, Khổng Nghi, Thanh Nghị, Lê Thương,
Viễn Châu, ... Trong số có người từng đi
kháng-chiến hoặc nằm vùng sau đ́nh chiến 1954.
Đặt biệt báo nhấn mạnh có sự cộng tác
của 20 cây viết nữ: 'Cô Thu Trang, cô Linh Bảo, cô Minh
Đức, cô Hương Trang. cô Linh Hà, cô Vinh Lan, cô Trúc
Liên, cô Kiều Mỹ Thôn, cô Thạch Hà, cô Hợp Phố,
bà Mộng Liên,.... '. Hợp Phố, Linh Bảo lúc đó
đă nổi tiếng. Minh Đức văn trên báo hiền
lành, trái hẳn với Minh Đức Hoài Trinh của Sám
Hối, ... hoặc của Chiếm Lại Quê Hương,
Bài Thơ Cho Quê Hương, Bên Ni Bên Tê sau này. Nhà văn Vinh
Lan của Vui Sống mới đây xuất-bản tập
truyện và kư Nỗi Sợ Và Niềm Hy Vọng (2006).
Lư
tưởng của Vui Sống được in chữ
đậm trong một cột nhỏ: "Tôi
được Thượng đế mời dự
đại hội liên hoan nơi thế gian nầy"
Tagore Thi hào Ấn Độ (trích tập thơ Offrandes
lyriques). Nhưng, xin chớ hiểu lầm! Vui Sống không
có nghĩa là cười đùa hay buông trôi để
tận hưởng cuộc đời. Và hội liên hoan
không phải là những cuộc truy hoan. Vui Sống (la joie
de vivre) là ḥa ḿnh với cuộc sống, để lấy
thăng bằng hầu đủ can đảm mà làm
việc. Trác táng không phải là Vui Sống, và kề gái
đẹp, nếm rượu ngon, chỉ là nước bí
của những kẻ mất thăng bằng. Vui Sống
bắt nguồn nơi thanh thản của tâm hồn,
mặc dầu ta bận rộn trí óc và nhọc nhằn xác
thịt". Người đọc biết chủ
trương, đường lối, quan điểm
của Vui Sống qua các bài mở đầu mỗi
số, như trong Vui Sống số 1 với tựa
đề "Ngả ba số mạng : Cộp...
Cộp... Cộp...- Lư tưởng đi vắng!":
"Trên
đường lịch-sử, cứ vài mươi năm
một, th́ một dân-tộc tiến đến một
ngả ba của số mạng của họ.
Đó là
một khúc quanh lịch sử vô cùng nguy hiểm mà họ
bắt buộc phải chọn nẻo, không thể
trốn tránh được. Chọn đúng
đường, họ sẽ đến nơi xán lạn,
chọn lầm, họ sẽ rơi vào vực thẩm.
Mà một
thế hệ hoang mang, không thế nào chọn đúng con
đường được. Họ Phải Biết Cái
Ǵ Họ Muốn, tức là họ phải có lư
tưởng.
Năm
1945, ta đă đứng trước một ngả ba
như thế. Ta đă chọn đúng con đường,
là đem xương máu giành độc-lập, v́ trong
thời tiền-chiến, ta có lư tưởng rơ rệt,
đó là ư-chí tự quyết-định số phận
của ḿnh.
Từ khi
độc-lập được thu hồi, kẻ già
an-phận v́ kiệt lực, hoặc v́ thích ngủ trên ṿng
hoa tráng lệ của thành công, c̣n thế-hệ mới th́
ngơ-ngác không biết ḿnh phải làm ǵ, trong khi c̣n không
biết bao nhiêu công việc phải làm.
Cuộc
phỏng vấn của Vui Sống, mà kết quả
đăng bên trang 5, là bằng chứng hùng-biện của
sự bỡ ngỡ của thanh niên hậu chiến.
Không
lư-tưởng là nguồn gốc của bao nhiêu là cuộc
đời thừa, có cũng như không, là nguồn
gốc của bao nhiêu cuộc đời hư-hỏng, mà
người ta không xét kỹ, cứ đổ lỗi cho
nhiều nguyên nhơn khác.
Hồi
tiền chiến, không nước nào có nhiều trà thất
bằng nước Nhựt. Thế mà không thanh niên
nước nào hăng hái với nhiệm vụ cho bắng
thanh niên Nhựt của thời đó.
Hồi
tiền chiến, số vũ trường ở V. N. không
kém số vũ trường bây giờ. Thế mà lúc
khởi nghĩa, thanh niên ta đă đứng lên đáp
lời sông núi, trong sô chiến-sĩ ấy, có rất
nhiều thanh niên đă đi nhảy.
Hồi
tiền chiến, phim cao bồi vẫn chiếu ở
đây. Thế mà thanh-niên ta thuở ấy không cao bồi.
Là v́
thế hệ tuổi trẻ tiền chiến của ta có
một chỗ nhắm để mà hướng tất
cả tâm chí và hành động của họ về cái
đích ấy: độc lập.
Trà
thất, vũ-trường, hộp đêm, hay ǵ ǵ nữa,
không là nguyên-nhơn chánh của sự buông trôi để
hưởng-thụ. Những ánh đèn mê hoặc ấy
không làm sao rù quến những con thiêu thân được,
nếu những con thiêu thân kia có hào quang khác, rực rỡ
hơn để mà say mê.
Khi thanh
niên được hào quang lư tưởng ch́ếm ḷng
họ th́ vũ nữ hay tiên nga đi nữa cũng
chỉ là tṛ đùa giây lát, mà họ quên ngay sau vài giờ.
Nếu ta
cứ lười nghĩ, dễ dăi t́m những
nguyên-nhơn dễ-dàng và gạt-gẩm như thế th́
không bao giờ ta trừ được căn bịnh
đồi trụy cả.
Chánh
thủ-phạm là sự thiếu lư-tưởng, sự
rỗng không nơi trí và hồn của con người.
Vui
Sống ra đời chỉ có một sứ mạng
độc nhứt là gây cho thanh niên một lư tưởng.
Khi họ có ngọn lửa thiêng ấy trong người
họ rồi, th́ xa hoa, trụy lạc khỏi phải
trừ, cũng bị họ khinh thường.
Tham-vọng
trên đây, Vui Sống cả quyết thực-hiện".
Dù một
số biên khảo của trong nước có nhắc danh
tính và tác-phẩm của B́nh Nguyên Lộc nhưng
đến nay chưa có thể kết luận rằng B́nh
Nguyên Lộc thuộc thành phần nằm vùng như Vũ
Hạnh, Lư Văn Sâm, Sơn Nam, v.v. Nếu chỉ xét khía
cạnh tư tưởng văn-nghệ dân-tộc qua các
tác phẩm của ông cũng đă có thể liệt ông vào
hàng ngũ yêu nước chân chất. Có thể với lư do
đó mà trong nước đă vinh danh B́nh Nguyên Lộc trong
số các nhà văn "yêu nước tiến bộ cách
mạng trên văn đàn công khai Sài G̣n 1954-1975" (18).
Văn-chương
của những người lính cộng ḥa theo nồng
độ của chiến-tranh mà leo thang lên những góc
độ hăi hùng, hiểm nghèo, từ cảnh tượng
chiến trường đến tâm cảm, suy tư.
Những Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư, Y
Uyên, Nhă Ca, Nguyên Vũ, v.v. đưa chiến-tranh
đến gần với người đọc. Khác
với bộ đội miền Bắc, người
chiến sĩ cộng ḥa có thể viết về
chiến-tranh một cách đa diện - dĩ nhiên nếu
rơi vào phản chiến hay chống đối chế
độ, sẽ bị kiểm duyệt cắt
đục. Hồ Minh Dũng, với bài Khi giải ngũ
về, đă nhắn nhủ người yêu dấu:
"C̣n ba
năm nữa anh sẽ về / anh biết chắc không c̣n
quê hương để ở
em gắng sắm cho anh
một cây đàn bầu / làm bằng nắp ḥm
người lính nghèo
chết ngoài mặt
trận / anh sẽ đàn cho mọi người cùng nghe
mà không xin tiền /
chỉ t́m lại ngững đôi mắt trân tráo
những bước chân
đi qua vỉa hè / với nụ cười mà nhiều
năm anh đă mất" (19).
Từ
cuối năm 1963 là thời của đảo chánh,
biểu dương lực lượng, người
Mỹ đồng minh can thiệp công khai vào nội t́nh
chính quyền miền Nam. ... Trong hoàn cảnh đó đă
xuất hiện một số người thiên tả,
phản chiến hay thiên cộng. Có người tự
xưng là cấp tiến, lương tâm thời
đại hay ư thức hệ dân quyền không
cộng-sản! Phát sinh những nhóm Hành Tŕnh, Thái
Độ, Đối Diện, ... với báo chí, văn-chương
xám (in roneo, phát hành bán chính thức, v.v.). Có người
tự nhận là "thành phần thứ ba", có
người thân cộng hay trở thành cộng sản.
Họ là những trí thức ở thành thị, là sinh viên,
giáo sư, nhà văn, nhà báo, tu sĩ. Thái độ của
họ có khi chỉ là một thái độ tinh thần,
chính trị hay luân lư nhưng có người dấn thân tranh
đấu. Có người cho họ là can đảm
nhưng hoạt động của họ bất lợi
cho các chính quyền miền Nam và vô t́nh hay cố ư hỗ
trợ hữu hiệu cho Mặt trận Giải phóng và
cộng sản Bắc Việt. Có người ngây thơ
hay không hiểu thấu đáo về cộng sản
Bắc Việt hay Mặt trận Giải phóng, có
người hoạt động có tính cách lăng mạn cách
mạng. Bên cạnh họ có những nhà văn dấn thân
tích cực, có thể nói đến Phan Nhật Nam, Nguyên
Vũ, Trần Hoài Thư, Thảo Trường, v.v. Nhân
vật Lực của Thảo Trường đi lính
cộng-ḥa, phải theo chiến-tranh bom đạn và
sống giữa những xác chết, của kẻ thù
vă cả của đồng đội! "Cuộc
chiến-tranh bây giờ là một cuộc giằng co
khổ cực và giai dẳng. Giải đất
quê-hương không c̣n là những h́nh ảnh êm đềm.
Quê-hương đă bị dầy xéo, đă bị ung
nhọt..." (Chạy Trốn, tr.37). Quê-hương
đích thực không c̣n, trở nên xa lạ v́ đă bị
những kẻ cướp nhân danh đủ thứ chân lư.
Mỗi con người là một hoang đảo, một
kẻ khác, không ai cứu được ai. Tin
được ai? Qua các nhân vật của Thảo
Trường người đọc nh́n thấy đó là
một đối kháng liên tục, những tra vấn không
ngừng của con người trí thức, "cấp
tiến", trong một xă-hội, đất nước
đang lâm chiến và kéo dài, một cuộc chiến-tranh
huynh đệ trong khung cảnh tranh chấp ư thức
hệ của cái gọi là "chiến-tranh lạnh"
của tương tranh quốc tế về sau biến
dạng thành tranh hùng quốc-cộng nay vẫn c̣n tiếp
tục.
Văn-chương
gọi là "phản chiến", một mảng
nhưng đa-loại chứ không đồng nhất,
như chúng tôi đă phân tích khi viết về nhà văn
Thảo Trường. "Thảo Trường thật
sự đánh dấu một dứt khoát của dấn-thân
và của một ư-thức muốn khác ḍng tâm-thức
đang thịnh-hành. Thật vậy, cùng với những
trí thức, giáo sư đại học, trung học và nhà
văn "cấp tiến" khác (Nguyễn Văn Trung,
Trịnh Viết Đức, Lư Chánh Trung, Thế Nguyên, các LM
Thanh Lăng, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần, ...),
và khác với một ḍng vận động trí thức khác,
mạo danh "dân tộc", của những kẻ
nằm vùng (Lữ Phương, Vũ Hạnh, Ngụy
Ngữ, Trần Hữu Lục, Thế Vũ, . ..), Thảo
Trường đă, qua các sáng tác văn-chương,
vạch một ranh giới giữa vô thức và ư thức
tích cực, giữa một dấn thân dù chân trời
chưa rơ nét và một buông tay, chịu trận
số-phận.
Trong
cuộc chiến vừa qua, sống ở bên này hay bên kia
th́ người dân vẫn đă không có tự do lựa
chọn. Nhưng có thể có thái đô. dấn thân khi đă
chấp nhận định mệnh (chiến-tranh như
một định mệnh), một chấp nhận
rất hiện sinh mà cũng trung-thực không kém. Phản
kháng trong khuôn định mệnh, tác-phẩm lấy
bối cảnh cuộc chiến nóng bỏng đang
diễn ra, đang tàn phá; nhưng Thảo Trường và một
số nhà văn như Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Ngô
Thế Vinh, Trần Hoài Thư, v.v. đă bị chụp
mũ làm nhụt ḷng chiến sĩ hoặc làm mất
miền Nam, trong khi họ cầm súng bảo vệ miền
Nam. Dĩ nhiên, họ là người dứt khoát của bên
này chiến tuyến chứ không phải nằm vùng
hoặc là người của bên kia - như Vũ Hạnh,
Lữ Phương, Sơn Nam, Thế Nguyên, Ngụy
Ngữ, v.v. là những người viết theo nghị
quyết hoặc chỉ thị, làm công-cụ cho Mặt
Trận Giải Phóng tức là Hà-nội! Như vậy,
không thể xếp những nhà văn mặc áo lính nói trên
vào số văn nghệ sĩ phản chiến
được. Không thể tổng quát hóa cho rằng
họ đă tiêu cực phản chiến làm mất miền
Nam. Phản chiến đúng ra là một nhăn hiệu chỉ
có thể áp dụng cho những nhóm thanh niên hoặc trí
thức ở Hoa-kỳ hoặc Âu châu chống
chiến-tranh Việt Nam; trong khi đó, các nhà văn trên
đă nhập cuộc. Nói rằng họ nói lên cái ư chí
phản kháng th́ đúng hơn. Dấn thân, nhập cuộc
là h́nh-thức hiện hữu trọn vẹn nhất
của nhà văn qua tác-phẩm! Thật vậy, chân lư
sẽ được tỏ ngời khi nó đă
được nắm bắt hiệu lực qua các tố
cáo, nhắc nhở, tra vấn, ... tức là qua
phản-kháng! Dấn thân không chỉ trực diện, mà c̣n
có thể đi đường ṿng hoặc dùng các
phương-tiện khác; v́ phản kháng có những
điều kiện và hậu quả cay đắng như
tác-phẩm bị kiểm duyệt hoặc tịch thu và
bị ra ṭa - thường là ṭa án quân sự. Thái độ
dấn thân, phản kháng này được Thảo
Trường đề cập nhiều lần, như trong
Chạy Trốn, những thanh niên ở phía quốc-gia th́
đi lính và chiến đấu nhưng khi đường
cùng, th́ quyết định không ... chạy trốn. Họ
nhận ra chân lư rằng sự có mặt cũng đă là
chiến đấu rồi. "Chiến đấu không
cứ phải là bắn giết. Có thái-đô. cũng là
chiến đấu" (tr. 58)."
Ngoài ra, có
thể cùng chủ đích nhưng với mỹ-học khác
với B́nh Nguyên Lộc, Vơ Hồng, Nguyễn Hiến Lê,
v.v. các tác-phẩm của Phan Nhật Nam, Thảo
Trường, Thế Uyên, v.v. ẩn chứa tiềm tàng
những cổ-xúy đạo-đức, những
điểm nhắm chính-trị vừa con người
cá-thể vừa con người tập-quần, và cả
một chủ trương ngầm về
văn-chương là ǵ, cho ai và để làm ǵ!
Văn-chương ở đây là của dấn thân,
của tra-vấn không ngừng, không nhân danh chủ
nghĩa, ư thức hệ, nhưng nhân danh con người,
nhân danh lương trí, ư thức, ... Như vậy, Thảo
Trường và Phan Nhật Nam làm nhà văn dấn thân tham
dự chiến-tranh, Thế Uyên dấn thân chính-trị làm
cách-mạng xă-hội, Trần Hoài Thư, Ngô Thế Vinh,
Nguyên Vũ, Hồ Minh Dũng, v.v. nhân danh con người và
nạn nhân chiến tranh để phản đối
chiến tranh c̣n những Vũ Hạnh, Thế Vũ,
Thế Nguyên, Trịnh Công Sơn, Trần Hữu Lục,
Ngụy Ngữ, ... đă phản chiến theo chỉ
thị của guồng máy chiến-tranh trong đó một số
đă bị lừa phỉnh!" (20).
Bút nhóm
Việt ở Huế với Trần Hữu Lục,
Trần Duy Phiên, Vơ Quê, Đông Tŕnh, Bửu Chỉ, Vơ
Trường Chinh, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Phú Yên,
Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn, Trường
Sơn Ca, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Đông Nhật, Lê
Gành... Trước 1975, họ viết theo chỉ thị,
mệnh lệnh để tố cáo chế độ, xuyên
tạc hay làm tuyên truyền, trên các báo Đối Diện,
Bách Khoa, v.v. Là một nhóm trẻ theo Cộng "đánh
Mỹ" và công khai chống chế độ cộng ḥa
miền Nam, được chế độ
cộng-sản đánh bóng gọi họ là những
"thanh niên trí thức đô thị miền Nam".
Họ sử dụng chuyện nhỏ, tiểu tiết,
ngoại lệ (ức hiếp, lợi dụng, 'chuồng
cọp', v.v.) để tổng quát hóa làm lớn chuyện
tuyên truyền. 'Chuồng cọp' của trại tù miền
Nam - do thực dân Pháp làm ra, nhưng làm sao có thể so sánh
được với nhà tù Hỏa Ḷ ở Hà-nội và
những trại tù 'cải tạo' trên khắp nước
Việt-Nam sau 1975 của cộng-sản? Nếu có
thống kê th́ những tù nhân của 'chuồng cọp' có
mấy người đă chết v́ tù hay gần như
tất cả đều trở ra sau 1975 và làm chức
lớn cả? C̣n thống kê về những kẻ sống
ở miền Nam bị đ̣n tù 'cải tạo' th́ sao, bao
nhiêu chết trong trại tù và bao nhiêu được
thả về để chết ở nhà hoặc lê lết
bệnh tật chết ṃn? Sau 1975, nhiều người
được chế độ thưởng công cho
giữ những chức vụ trưởng, phó đầu
ngành như Vơ Quê, Trường Sơn, Lê Gành, Lê Văn
Ngăn, Trần Hồng Quang, Tiêu Dao Bảo Cự, làm
hội viên các Hội Nhà văn Việt Nam như: Vơ Quê,
Trần Hữu Lục, Đông Tŕnh, Lê Văn Ngăn,
Tần Hoài Dạ Vũ, Hội Nghệ thuật tạo
h́nh Việt nam : Bửu Chỉ., Hội Nhạc sĩ
Việt Nam (Nguyễn Phú Yên...).
Nhóm Ư
Thức ở Phan Rang và các tỉnh miền Trung có tờ báo
in ronéo Ư Thức và nhà xuất bản cùng tên tụ tập
những cây viết Trần Hoài Thư, Vơ Tấn Khanh, Mang
Viên Long, Kinh Dương Vương, Hồ Mạnh Dũng,
Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Trần Hữu
Ngũ, Châu Văn Thuận, Phạm Văn Nhàn, Nguyên Minh,
Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Nguyễn Lệ Uyên, Chu
Trầm Nguyên Minh, v.v. Cũng phản đối
chiến-tranh nhưng nhóm Ư Thức của những
người cùng tuổi với nhóm Việt, tỏ ra
phẩn nộ với lương tâm và ư thức công dân khác
nhóm ở Huế. Thơ truyện của họ viết
chống các cấp chỉ huy xôi thịt, những cách
điều khiển chiến-tranh phi lư, phí phạm, tả
những cảnh cực h́nh lao công chiến trường
(Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư) hay cảnh
ṭa án quân sự, hay trốn lính, đào ngũ, tŕnh diện
trễ, bất tuân thượng lệnh, v.v. Các cây viết
thuộc khuynh hướng này nói lên cái tiêu cực nhưng
đồng thời họ đang cầm súng chống
cộng-sản và bảo vệ miền Nam. Sự có
mặt của họ cùng với các nhà văn khác như
Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, các nhóm Thái
Độ của Thế Uyên, Hành Tŕnh của Nguyễn
Văn Trung, Tŕnh Bày của Thế Nguyên, Diễm Châu,
Giữ Thơm Quê Mẹ của văn nghệ sĩ và tu
sĩ Phật giáo, Đối Diện của trí thức tu
sĩ Công giáo, v.v. chứng tỏ miền Nam đă
trưỡng thành về chính trị, chấp nhận
đối lập và tiêu cực dù trong t́nh cảnh chiến
tranh khốc liệt, dù rằng đức tính đó (và nhân
đạo) đă bị lạm dụng và trong nhiều
trường hợp đă tỏ ra yếu kém (Vũ
Hạnh, Lữ Phương, Tin Văn, nằm vùng, gián
điệp, v.v.). So với nhóm Việt, nhóm Ư Thức
nhiều người cầm súng, để bảo vệ
miền Nam tự do, không lựa chọn, hay nói cách khác
họ phải bảo vệ đất nước của
họ, dù họ biết cấp trên có người không
tốt, chính quyền có thành phần lợi dụng, phung
phí tài nguyên. Lời của Trần Hoài Thư "Tôi
đang viết về một thảm kịch, cho con cháu
chúng ta trong tương lai, để sau này khi lớn lên
chúng sẽ hiểu về cuộc chiến này. đêm qua,
cả làng bên sông, nơi mà bọn tôi đă đến và ǵn
giữ, sau đó bàn giao lại cho nghĩa quân và xây dựng
nông thôn, đă bị pháo dập. địch kéo về
cả đại đội chọc thẳng vào làng.
Từ lâu những người bên kia đă coi cái làng như
một cái gai cần phải nhổ bằng bất cứ
giá nào. Những người ngồi ở Sài G̣n hay Hoa
thịnh đốn th́ muốn coi ngôi làng như một
thành công trong chính sách b́nh định phát triển. Nhưng
đó chỉ là lư thuyết. Họ đă ngu xuẩn
để hiểu về kế hoạch bảo vệ dân
làng về lâu về dài. Một trung đội nghĩa quân
làm sao đủ sức che chở cả ngôi làng. (...) Tôi
đă đến cùng với băi hoang tàn để hiểu rơ
hơn về sự thật của cuộc chiến.
Cuối cùng cũng vẫn là dân vô tội. Rơ ràng chúng ta
đă bị thua. Chúng ta đă đến với họ, mang
lại niềm tin cho họ, nhưng chúng ta không thể
bảo vệ họ..."(Nhật Kư Hành Quân). Cuộc
chiến đă khiến con người đánh mất
phẩm giá, trở thành biện minh dẽ dăi cho mọi hành
động: "Chiến tranh, tôi phải cảm ơn nó,
để tôi có thể dẹp bỏ hết những
sự ghê tởm , khinh bỉ cái quá khứ rục mửa
của tôi. Chiến tranh đă giúp cho tôi thấy rơ rằng
mọi sự là vô nghĩa, là hư vô. đừng bận
tâm và thắc mắc. đừng tự ái và ghê tởm.
(...) Xă hội này thối nát này phải cảm ơn
chiến tranh..."(21). Người lính của Trần Hoài
Thư đáng tội, chỉ v́ anh có suy nghĩ, biết
nh́n thấy những bất nhân và bất công, những tâm
địa và tư cách của những kẻ cùng chiến
tuyến!
Sau 1975,
Trần Vàng Sao đă viết Tôi Bị Bắt, Tiêu Dao
Bảo Cự viết Nửa Đời Nh́n Lại rồi
Tôi Bày Tỏ như một tự kiểm, Lư Quí Chung biên
hồi kư Hồi Kư Không Tên (2005), không tên như thất
vọng, bị dùng, không thể nói trắng ra và không
lương thiện tự trách ḿnh (tiên trách kỷ hậu
trách nhân!). Thế Nguyên (tác-giả Cho Một Ngày Mai Mơ
Ước, 1972) th́ đă chết trong thất vọng, c̣n
những Nguyễn Trọng Văn, Lư Chánh Trung c̣n đâu
tiếng nói của lương tri? (Hơn nữa những
ǵ các vị này phê phán miền cộng-ḥa như đĩ
điếm, nghèo đói, bất công hay sách báo, thời trang,
Pepsi Cola của Mỹ th́ nay đầy rẫy mà c̣n tệ
hơn trước 1975!). Và những Thái Lăng (Nhật Kư
Của Người Chứng, 1966, NXB Thời Mới
của Vơ Phiến), Thái Luân (Vùng Tủi Nhục, 1965) từ
chống Cộng chuyển sang phản chiến chống
Mỹ, họ nghĩ ǵ? Xin nhắc lại đây Trần
Vàng Sao thời "bốn ngàn năm nằm gai nếm
mật":
"Tôi
bước đi / Mưa mỗi lúc mỗi to,
Sao hôm nay ḷng thấy
chật
Như buổi sáng mùa
đông chưa thấy mặt trời mọc
Con sông dài nằm nhớ
những chặng rừng đi qua
Nỗi mệt mỏi,
rưng rưng từng con nước / Chim đậu trên
cành chim không hót
Khoảng vắng mùa thu
ngủ trên cỏ may / Tôi yêu đất nước này
những buổi mai
Không ai cười không
tiếng hát trẻ con / đất đá cỏ cây ơi
Ḷng vẫn thương
mẹ nhớ cha / Ăn quán nằm cầu
Hai hàng nước mắt
chảy ra / Mỗi đêm cầu trời khấn Phật,
tai qua nạn khỏi
Tôi yêu đất
nước này áo rách / Căn nhà dột phên không ngăn
nổi gió
Vẫn yêu nhau trong
từng hơi thở / Ḷng vẫn thương cây nhớ
cội hoài
Thắp đèn đêm
ngồi đợi mặt trời mai
Tôi yêu đất
nước này như thế "(Bài thơ của một
người yêu nước ḿnh, 1967)
* * *
Về các
nhà văn nhà báo và trí thức năm vùng, cộng-sản
hoặc yêu nước ở miền Nam sau hiệp
định Genève 20-7-1954, thiển nghĩ hăy để
lịch-sử sau này xét đoán vinh danh hay luận tội,
hiện hăy c̣n khá gần để có thể có cái nh́n và
kết đoán khách quan, trung thực; những Thiếu
Sơn, Lưu Nghi, B́nh Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Thẩm
Thệ Hà, Ngọc Linh, Kiên Giang, Ái Lan, Kiêm Minh, ... Tuy nhiên
đă có một số khá hiển nhiên như Vũ Hạnh,
Sơn Nam, Lê Vĩnh Ḥa, Nguyễn Bảo Hóa, Dương
Tử Giang, Lư Văn Sâm, Thái Bạch, Lữ Phương,
Vân Trang, ...
Xin nói qua
vài tạp chí và tên tuổi cánh tả.
Nhân
Loại với chủ trương 'phục vụ
văn-chương lành mạnh' như ghi trên tiêu đề
báo bộ cũ 1955 đến 1956. Bộ mới từ tháng
4-1956 đến 1958 th́ đ́nh bản. Tiếng nói của
văn-học miền Nam lục-tỉnh tiếp nối
ḍng văn-học Hồ Biểu Chánh, đăng truyện
Nguyễn Chánh Sắt, Phi Vân, v.v. Có mặt Dương
Tử Giang, Hợp Phố, Ngọc Linh, Viễn
Phương, Lư Văn Sâm, Lê Vĩnh Ḥa, Văn Phụng
Mỹ Trang Thế Hy, Tiêu Kim Thủy Tô Nguyệt Đ́nh,
Kiêm Minh, v.v. Từ đầu đến gần cuối,
tờ Nhân Loại là cơ quan ngôn luận bị Việt
cộng thao túng sử dụng. Cùng trường hợp có
nhà xuất-bản Phù Sa của Ngọc Linh (từng
xuất-bản sách của Ngọc Linh, Lê Vĩnh Ḥa, Sơn
Nam, v.v.), nhà xuất-bản Trùng Dương của Lưu
Nghi và Lá Dâu do Thẩm Thệ Hà phụ trách.
Tạp chí
Bách Khoa ra mắt tháng 1-1957, do Huỳnh văn Lang
điều khiển và viết bài về kinh tế;
Phạm ngọc Thảo viết về quân sự, chính
trị, ... 1958 Lê Ngộ Châu điều hành khi ông Lang đi
tu nghiệp ở Mỹ, nhưng báo vẫn đứng tên
Huỳnh văn Lang cho đến tháng 2-1965 dù sau đảo
chánh 1-11-1963, ông Lang bị đảo chánh bắt v́ tội
... Cần Lao. Bách Khoa vào những năm cuối
trước tháng 4-1975 từng đổi ra Bách Khoa Thời
Đại. Khi viết về văn-học miền Nam
thời này, Vơ Phiến nói đúng nhưng không đủ, có
thể v́ ông trong cuộc, khi cho rằng : " ... Bách Khoa là
một tạp chí dung ḥa rộng răi mọi khuynh
hướng. Không có chủ trương "văn nghệ
cách mạng" cũng không chủ trương
"vượt thời gian", nó đăng bài của các
lăo thi sĩ tiền bối Đông Hồ, Quách Tấn,
Vũ Hoàng Chương, lẫn truyện của Thanh Tâm
Tuyền, Trùng Dương... Về mặt chính trị,
sức dung ḥa của nó khiến có lần Nguyên Sa nói
đùa: Bách Khoa là một vùng xôi đậu. Nó đón
nhận cả Nguyễn văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan,
Vũ Hạnh, lẫn Vơ Phiến, Vũ Bảo..."(22).
Nguyên Sa nói đúng hơn! Huỳnh Văn Lang chủ
nhiệm với tinh thần b́nh dân học vụ, văn-hóa
cần lao nhân-vị, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Ngu
Í... là người cựu kháng chiến, Vơ Phiến từng
ở Khu 5 kháng chiến, với bút hiệu Tràng Thiên và Thu
Thủy (phê b́nh sách của Vơ Phiến), những năm
cuối trước 1975 là thời của Nguyễn
Mộng Giác, Trần Hoài Thư, Phạm Long Điền, ...
Vũ Hạnh lèo lái những người làm văn-hóa 'dân
tộc'. Lê Ngộ Châu cũng như Nguyễn Hiến Lê là
những người cẩn mực, có văn-hóa và tin
người, riêng Nguyễn Hiến Lê v́ tự tin đă
tẩy chay giới cầm quyền chính trị văn-hóa
thời cộng-ḥa và có cảm t́nh với những
người cộng-sản dưới áo khoác bảo
vệ văn-hóa dân-tộc kiểu Vũ Hạnh, Lữ
Phương, Nguyễn Văn Giáp, ... cộng tác với Tin
Văn ("Văn-chương và dân-tộc tính", số
10, 1966). Sau 1975 th́ Nguyễn Hiến Lê đă thức
tỉnh và chỉ nhẹ nhàng phê chế độ
cộng-sản phớt qua trong Hồi Kư (vẫn bị
kiểm duyệt ấn bản in trong nước). Bách Khoa
c̣n là đất vẫy vùng của những nhà văn
nằm vùng hoặc cảm t́nh viên Việt cộng như
Vân Trang, Thiếu Sơn, Trần Thúc Linh, Hợp Phố,
Đông Tŕnh, ... Người cộng-sản cũng như
quốc gia và yêu nước không tả không hữu
đều đă dùng người khác làm b́nh phong để
thao túng, như với Bách Khoa, hay với Sinh Lực, Mai
(Hoàng Minh Tuynh), v.v. hoặc đă dùng những chủ
trương lành mạnh hóa xă hội, bảo vệ
thuần phong mỹ tục, b́nh dân học vụ, hội
Khổng học, ... Nhưng chúng tôi không đồng ư
với nhận xét cho rằng những nhà văn trẻ
của thời cuộc chiến và văn thơ ca nhạc
chống chiến-tranh cao độ nhất như Trần
Hoài Thư, Kinh Dương Vương, Hồ Minh Dũng,
Ngô Thế Vinh, ... bị cộng-sản lèo lái đưa vô
tṛng. Dĩ nhiên những người khác hoặc có kẻ
hở, ngây thơ, háo thắng hoặc mạng nhện t́nh
lư đă bị dùng như con cờ; đó là những
Thế Nguyên, Ngụy Ngữ, Nguyễn Trọng Văn,
Trần Hữu Lục, Bảo Cự, Trần Vàng Sao, ...
bên văn thơ, và những Trịnh Công Sơn, Miên
đức Thắng, Nguyễn đức Quang, Phạm
Thế Mỹ, ... bên nhạc.
Do trung
ương cục và đặc khu ủy Sài-G̣n-Gia
Định do Trần Bạch Đằng chỉ
đạo, tờ Tin Văn ngoài Nguyễn Nguyên (Nguyễn
Ngọc Lương), Vũ Hạnh, Hoàng Hà, Vân Trang, Mặc
Khải, Phương Đài, Thái Bạch, ... c̣n lôi kéo thêm
Nguyễn Trọng Văn, B́nh Nguyên Lộc, Nguyễn Văn
Xuân, Minh Quân, Phan Du, ... Dùng dân-tộc làm b́nh phong, do đó khi
chiến lược cần, lại hô hào tự do: nhóm tung
ra "Bản tuyên ngôn của văn-nghệ sĩ về
tự do sáng tác, tự do biểu diễn, tự do
xuất-bản" ngay trong số ra mắt (6-6-1966)!
Vũ
Hạnh viết cho nhiều tờ báo dưới nhiều
bút hiệu Nguyên Phủ, Minh Hữu, Hoàng Thanh Kỳ, cô
Phương Thảo, hoạt động trong Văn Bút
Việt-Nam, tổng thư kư Hội Bảo vệ
văn-hóa dân-tộc, một tổ chức ngoại vi
của Việt cộng, viết phê b́nh, điểm sách và
lư luận, tranh luận văn-nghệ (T́m Hiểu Văn
Nghệ 1970, ...) trước sau một ư cưỡng ép
văn-nghệ làm chính-trị một chiều, dùng cả
biệt hiệu tác-giả A. Pazzi lẫn dịch giả
Hồng Cúc (cùng tên với phụ trách ṭa soạn Tin Văn)
dịch cuốn Người Việt Cao Quí để
lừa người đọc, cuối cùng bị bắt
ở ṭa báo Bách Khoa (7-1967) - nhưng được chế
độ pháp quyền và nhân đạo miền Nam buông
thả (cùng áp lực của LM Thanh Lăng chủ tịch
Văn Bút tin người và "ngây thơ" về
cộng-sản!).
Sơn Nam
trong thời kháng-chiến hoạt động ở
miền Tây và Khu 9 và từng được giải
giải Cửu Long 1952 với hai truyện ngắn Tây
Đầu Đỏ, Bên rừng Cù lao Dung kư Phạm Minh Tài
- cũng như khi cộng tác với báo Nhân Dân Miền Nam
do đảng cộng-sản điều khiển, Trần
Bạch Đằng phụ trách có đăng các truyện
ngắn Tây Đầu Đỏ, Bên rừng Cù lao Dung, Cây
đàn miền Bắc, v.v. Hai truyện đầu chống
thực dân và địa chủ tức đấu tranh giai
cấp và 'dân-tộc'; truyện sau đề cao t́nh
đồng chí Bắc Nam. Trong Tây Đầu Đỏ (khu
kháng-chiến xuất-bản thành tập cùng tựa), v́
mắc nợ trả chưa đủ mà bị 'tên' tây
bắt con ḅ đang chửa mổ bụng lấy bào thai
nhắm rượu để trừ nợ:
"-
Trời ơi! Phen này mổ bụng con ḅ chửa của
tôi để trừ nợ. Thiệt sao, thầy Tư?
- Ổng nói vậy đó.
Không tin, lát nữa ông qua bứng cột nhà cho coi"(23).
Sau đ́nh
chiến 10-1954, theo nhà văn Xuân Tước (24), Sơn Nam
dựa bóng B́nh Nguyên Lộc và Vương Hồng Sển
để nằm vùng ỡ Sài-G̣n, bị bắt tù hai
lần, 1960 và 1974. Suốt thời cộng ḥa, Sơn Nam
viết nhiều về lịch sử, văn-hóa và một
số tiểu thuyết xă hội thời cựu trào.
Nguyễn
Bảo Hóa là nhà văn yêu nước "tiến
bộ" thời đầu kháng-chiến Nam-bộ,
về sau theo cộng-sản nằm vùng sinh hoạt báo chí
và trở qua viết tiểu thuyết dă sử đăng
nhật tŕnh. Lê Vĩnh Ḥa tác-giả nhiều truyện
ngắn trên Nhân Loại, Bách Khoa, v.v. sau xuất bản
tập Mái Nhà Thơ (1965) và Người Tị Nạn. Ông
chết do bom dội trong bưng, c̣n Dương Tử
Giang, th́ vượt ngục Tân Hiệp bị bắn
chết năm 1956.
Trang
Thế Hy (c̣n kư Văn Phụng Mỹ, Minh Phẩm,
Triều Phong, Vũ Ái, Phạm Vơ,...) xuất-bản
Nắng Đẹp Miền Quê Ngoại (kư Văn Phụng
Mỹ, 1963), làm thơ viết truyện ngắn và tiểu
thuyết (đăng báo), có những tác-phẩm nổi
tiếng như bài thơ Khoai Ngọt Bánh Đắng kư Minh
Phẩm được B́nh Nguyên Lộc đưa vào
truyện Quán Bên Đường và Phạm Duy phổ
nhạc, truyện ngắn Người bào chế thuốc
giảm đau, ... Là cảm t́nh viên của Mặt Trận
GPMN "chống Mỹ", sống ở Sài-G̣n, cộng
tác với Nhân Loại, Vui Sống, Bách Khoa, v.v. bị
bắt 1962 và sau đó vô bưng ở Củ Chi 1963,
viết báo viết truyện đăng báo của Thành
ủy Sài-G̣n kư dưới nhiều bút hiệu ông,
truyện ngắn Anh Thơm râu rồng được
giải văn học Nguyễn Đ́nh Chiểu của
Hội Văn nghệ Giải Phóng miền Nam Việt Nam
1960-1965, truyện ở tù của một phu đạp
xích-lô 'cảm t́nh viên Việt cộng' đặt truyền
đơn bị công an Cộng ḥa bắt giam, trong tù anh
gặp nhiều người cùng hoàn cảnh hoặc
nạn nhân của những đấu tranh giai cấp
chống 'địa chủ'. Sau 1975, ông có thêm các tập
truyện ngắn Mưa Ấm (1981), Người Yêu Và Mùa
Thu (1981), Vết Thương Thứ 13 (1983), Nợ
Nước Mắt (2002), tập truyện ngắn và
hồi ức Tiếng Khóc Và Tiếng Hát (1993) và mới
đây, tuyển tập Truyện Ngắn Trang Thế Hy
(2006). Ông viết trên dưới 50 truyện ngắn, không
nhiều như B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam. Thời
chiến tranh 1957-1975, ông viết theo chiều hướng
đề cao người theo Mặt trận chống
lại miền Nam cộng ḥa, cũng như khuyến khích
cầm súng và vô bưng. Trong Mưa Ấm, cô gái tên Thu
'cảm t́nh viên cộng-sản', thuộc một 'tổ
chức mà em phải chấp hành mệnh lệnh' rủ
người yêu ra vùng giải phóng nhưng chàng Diệp
chỉ muốn làm 'một người chân chính cỡ
nhỏ' tức 'tham gia đại cuộc nhưng không toàn
tâm toàn lực'. Dù sao th́ con người Trang Thế Hy,
cũng như tác-phẩm, thẳng thắn, chống
bất công và những chuyện bất b́nh, yêu sự
thật, dù có bị lợi dụng, tâm hồn bộc
lộ qua những lời lẽ tự nhiên như bài
thơ Lời nói dối nhân ái, ... không quỵ luỵ
quyền hành dù là với những người 'bạn'
từng chung chiến đấu thời kháng-chiến
(truyện Chất Liệu), và lúc nào cũng ḷng nhân ái
(truyện Thèm Thơ, Chuyện Người Chế
Thuốc Giảm Đau, ...). Truyện Thèm Thơ kết
thúc trong nuối tiếc:
"...
Loan ơi! Chết đem theo sự thèm nghe thơ và
sống mà thèm nghe thơ chưa biết ai khổ hơn ai.
Bài thơ mà em thèm nghe và anh thèm làm cũng chẳng
đẹp ǵ cho lắm. Để thèm nó có lẽ ít
buồn hơn là thưởng thức nó với sự
đau xót trong ḷng. Sẽ có một ngày kia, khi một cô gái
ôm một chàng trai trong giấc ngủ yên lành, th́ hơi
ấm của cô ta tạo ra không gợi đến một
tứ thơ cay đắng như em nghĩ. Bài thơ
về hơi ấm đó sẽ có người làm và làm hay
hơn bây giờ.".
Ḷng
thương người nhuốm sự bất lực
không làm được ǵ nhiều, như trong một
truyện ngắn khác, Một Thiếu Nữ Không Đáng
Kể, đăng trên Nhân Loại năm 1957! Hoặc
như nhân vật nam trong Nắng Đẹp Miền Quê
Ngoại trong cơn lốc của chiến-tranh đă 'bán
đứng' người con gái tên Thơm, cũng là bạn
thời nhỏ, đẻ phải hối hận bên
nấm mồ: "Em Thơm ơi! Có những kẻ
muốn tàn phá hết, sát phạt hết không muốn
chừa lại một chút ǵ tươi đẹp trên
giải nước non này. Nhưng cái đẹp vẫn
muôn đời tồn tại: biển cỏ đẹp, ḍng
kinh đẹp, màu nước đẹp, cô gái chèo ghe
đẹp, tiếng hót con chim đẹp và tấm ḷng bao
dung tha thứ của người cha rộng lượng
của em cũng đẹp đẽ vô cùng. Đến
như cái tâm tư đen tối của anh mà cũng chói lên
được vài tia sáng đẹp dưới ánh nắng
miền quê ngoại. Anh không đổ thừa
chiến-tranh để mong em tha thứ như người
cha thân mến của em đă vịn vào đó mà xá tội
cho anh. (...) Anh chỉ muốn hứa với em rằng tâm
tư u tối của anh từ đây sẽ trong sáng
lần lần nhờ sự soi rọi của nắng
đẹp miền quê ngoại" (25).
Trang
Thế Hy cũng như một số những người
miền Nam (và cả nước) thiên tả v́ lư
tưởng yêu nước và nhân đạo, viết cho
một sứ mạng xă hội, ông đứng về phía
những người bị đàn áp, những nạn nhân
của địa chủ, guồng máy chính trị và
thực dân, cả guồng máy và con người cộng-sản
sau 1975.
Văn
thơ của những người yêu nước v́ yêu
nước, chân thành yêu nước, chân thành kháng-chiến,
chống mọi bạo quyền bạo lực; văn
thơ của những người này tự nó có giá
trị đánh thức, tố cáo và phục vụ t́nh
tự dân tộc. Ḷng yêu nước xuất phát từ
chế độ thực dân thành ư thức và hành cử
kháng-chiến, như đă nói, người yêu nước
miền Nam tự nguyện hoặc bị chiến
thuật chiêu hiền hoặc tâm lư chiến mà sát nhập
hoặc đi dưới trướng của Mặt
trận GPMN; những người khác thành đối
lập hay lực lượng chính trị sinh hoạt một
cách dân chủ (Liên trường, Đại Việt
miền Nam, 'Hoa Sen', Trần Văn Hương, Dương
Văn Minh, v.v.), những thế đứng khác nhau,
thành-bại, hay-dở đă là những kinh nghiệm! Cái
nhăn có thể không quan trọng, nhưng ḷng yêu nước
chân thành nếu có, sẽ sáng tỏ với thời gian!
5.
Những thăng trầm, ngụy tín, từ khi thống
nhất:
Thống
nhất đất nước xong là những chiến
dịch bôi xóa, tịch thu, cấm đoán những
văn-hóa phẩm của miền Nam 'thua cuộc', là tù
đày, tra khảo những người làm văn-hóa
văn-học ở miền đó. Chúng tôi đă có dịp
viết về những sự kiện văn-hóa này trong bài
"Văn học tự do khai phóng vẫn là nguồn hy
vọng!"(26), do đó ở đây chỉ ghi lại
đôi điều.
Từ
Đề Cương về Văn-hóa Việt Nam (1943) qua
thời kháng-chiến chống Pháp, chống Mỹ,
văn-học đă bị chính-trị và guồng máy hóa,
cơ cấu hóa, từ chủ đạo tiến sang
độc tôn. Văn-học trong một thời-gian dài
đă bị dùng như phương tiện, công cụ,
chức năng bị hạ thấp ở giáo dục, tuyên
truyền, trở nên công thức, dần dà qua thời
Đổi Mới (1987) mới nhận ra thêm chức
năng thẩm mỹ (mỹ cảm) và tính đa diện
của văn-chương! Hiện thực rời sử
thi, chỉ thị để xuống đường,
đụng đến đời thường và con tim có
những mạch máu. Từ đó sinh ra những nỗi
buồn thật của chiến-tranh, những hiện
thực của những Bến Không Chồng (Dương
Hướng), Mảnh Đất Lắm Người
Nhiều Ma (Nguyễn Khắc Trường), Bước Qua
Lời Nguyền (Tạ Duy Anh), v.v. Chu Lai phải Ăn Mày
Dĩ Văng, Lê Lựu phải trở về Thời Xa Vắng,
Trần Mạnh Hảo phải Ly Thân, tất cả đă
phải trở về quá khứ để có thể
sống đời thường hôm nay, dùng quá khứ làm
chỗ dựa tinh thần. Nỗi Buồn Chiến Tranh
của Bảo Ninh - được viết với tiềm
thức, với kư ức trí tưởng và với
tưởng tượng, đă nương theo phong trào
Cởi Trói để viết công khai rằng người
lính đă có thể nghe và nh́n thấy "những lời
đồn đại, những sấm truyền và những
lời tiên tri" (bản 1989, tr. 15), "những linh
hồn lồm xồm lông lá", râu tóc quá dài, cởi
trần truồng ngồi trên một thân cây "tay cầm
lựu đạn"; những "bóng ma rách bươm,
uyển chuyển và huyền bí, lướt ngang luồng
ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xơa bay".
Những hồn ma của đồng đội từng là
những con người biết cầm súng, biết yêu
thương, được người sống kêu
gọi "Anh là ai? Hăy ra với chúng tôi. Chúng tôi là bạn.
Chúng tôi t́m anh, chúng tôi đă t́m anh bấy lâu nay, khắp
nơi". Đời lính phải chứng kiến biết
bao cái chết nhưng với Kiên, những cái chết
ấy sao thảm thương, đau đớn quá! Có
những người chết mà không được một
nấm mồ, chết mà không c̣n nguyên vẹn thân xác
để hồn măi lang thang: "hồn bơi ra khỏi
xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu
người". Có những người chết trở
thành "đống giẻ nát nhừ vắt ḿnh trên
bờ công sự ". Bao nhiêu cái chết dồn dập
về trong tâm trí Kiên. Truyện là "bầu không khí
của những khu rừng tăm tối, ngùn ngụt
tử khí và lam chướng, mờ mịt bóng yêu tà.
Những di vật và những bộ xương mũn nát
được vớt lên từ đáy những rừng cây
ấy". Nếu trước đó thơ văn của
Chế Lan Viên, Tố Hữu, v.v. rùng rợn th́ v́ phong phú tưởng
tượng hơn là hiện thực, th́ rùng rợn
của Nỗi Buồn Chiến Tranh là của đời
thường. Đây là tiểu-thuyết về một
thế giới dị thường, về đêm tối -
theo tác-giả, biểu tượng của chiến tranh là
bóng đêm và những cơn mưa dày dặc trong rừng
sâu! Tưởng huyền ảo, rùng rợn mà là hiện
thực sống qua, do đó đă thành công gây
được nơi người đọc những
cảm xúc đau xót, ghê tởm chiến-tranh và con người,
mở ra một tính nhân-bản như một khám phá
mới, một t́m thấy (v́ có đi t́m)!
Sau 1975,
guồng máy "chiến thắng" tung hàng loạt
ấn phẩm gọi chung là "thơ văn cách-mạng,
kháng-chiến chống Pháp và chống Mỹ", nào là anh
hùng ca, trường ca, hành, ... Người viết
"lớn" có (Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận,
v.v.) "nhỏ" có, từ bưng biền ra (Anh
Đức, Lư Văn Sâm,..), từ vùng nằm ra mặt
(Vũ Hạnh, Lữ Phương, Sơn Nam, Bảo
Cự, Cung Tích Biền, Thế Hoài, Trần Hữu Lục,
v.v.). Văn thơ yêu nước và cách-mạng trong
chiến-tranh 1945-54 (và cả 1957-1975) đă không thật
sự có phần phản kháng, như sau 1987 cho đến
nay. Trong vùng kiểm soát của đảng cộng-sản
Việt-Nam, thơ văn phải phản ánh hiện
thực theo quỹ đạo chính thức (chủ nghĩa
hiện thực xă-hội chủ-nghĩa) - ngay đến
2005 mà Bóng Đè của Đỗ Hoàng Diệu viết theo
linh cảm của thế hệ trẻ về tổ
quốc mà hăy c̣n bị phê phán là không biết
lịch-sử, quá-khứ, chiến-tranh nên đă
"bắn súng lục và nă đạn vào quá-khứ".
Hay truyện Cánh đồng bất tận của
Nguyễn Ngọc Tư đăng ba kỳ trên báo Văn Nghệ,
và nhà xuất bản Trẻ in 2005, sau bị công văn
của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tỉnh Cà Mau quy kết
tội nhà văn trẻ thuộc diện quản lư của
ḿnh viết truyện đó có ư bôi xấu hiện thực
quê hương vùng miền (!).
Văn
chương kháng chiến cũ là tô hồng nên đă xa, sai
sự thật, c̣n những Bảo Ninh, Nguyễn Minh Châu,
Dương Thu Hương, v.v. sau này đă dũng cảm
khi viết ra một số sự thật khác với chính
thức, đó là phe bộ đội cũng có những
tổn thất và những hành động tàn ác. Văn
thơ kháng chiến cũ, đă chỉ vẽ ra
được cái đại thể, cái đa số
tốt đẹp, cái chiến thắng, c̣n th́ kỵ tránh
nói đến phần mất mát và xấu xa. Thường
được tiếng nói chính thức xem đơn
lẻ chứ không thuộc về bản chất của
quân cách mạng. Thật ra, đă không ai viết thật
(đúng sự kiện, thật ḷng, thật biết) v́
đă chỉ làm nô lệ cho một lư thuyết giáo
điều, một ư thức hệ, ngày càng mơ hồ và
cả bất lực! Đề cập đến tiêu
chuẩn, v́ văn thơ nào không theo đúng hai phương
pháp đó, đều bị coi là phản động,
đồi trụy... bị nghiêm khắc cấm đoán,
tiêu hủy, như đă xẩy ra cho văn học miền
Nam Việt-Nam trước đây và hải ngoại
hiện nay.
Đă có
những công tŕnh nghiên cứu, phê-b́nh
"văn-học" của chế độ
cộng-sản Việt Nam trong thời chiến-tranh
1957-1975 và sau đó, mà tác-giả phần lớn là cán bộ
văn-hóa và giáo dục, v́ mục-đích chính-trị do
đó đă có những xếp loại, phê phán mà nay có
thể nói là sai, một chiều, bất cập! Thỉnh
thoảng đây đó có những nhận xét "khách
quan", "xét lại" về nền văn học
'cách-mạng' minh họa đó, gióng tiếng phê bất
cập, tiếc rẻ, "giá như..." như Nguyên
Ngọc, ngay cả Phong Lê (27). Văn-học yêu nước
đă phải chịu thịnh suy cùng các biến cố
lịch-sử và chế độ chính trị, nay c̣n
lại ǵ với các thế hệ hôm nay? Có nên mổ xẻ
thực chất và nhận diện nguồn cơn những
sai lầm cá nhân và tập thể? Ai có thể làm công
việc này? Nhiều người trong cuộc đă có
dịp giăi bày, giải tỏa một số nghi vấn,
phản kháng bằng tự phê tự kiểm (Nguyễn
Hộ, Nguyễn Văn Trấn, v.v.), nhưng phần
lớn đă yên lặng và sống hết cái kiếp làm
người, đă dĩ lỡ làm hoặc được
tôn làm anh hùng yêu nước hoặc từng có thái độ,
lựa chọn, th́ muốn quên hoặc phó mặc công
luận.
Cuộc
chiến 1957-1975 đă lùi vào quá-khứ và lịch-sử
đối với các thế lực quốc tế,
chiến-tranh lạnh cũng đă được xem
như tàn cuộc, Mỹ đi rồi Mỹ lại
về, Trung quốc giúp từ 1949 rồi có lúc bị
hất ra, đàn anh bèn cho bài học 1979 rồi anh-em
lại tái hồi môi hở răng lạnh, v.v. Nhưng
vấn-đề chiến-tranh và yêu nước vẫn c̣n
đó giữa người Việt với nhau, giữa
những người từng đối đầu
chiến tuyến và cả giữa những người
từng chung chiến tuyến ở cả hai bên, cảnh
'anh em nồi da xáo thịt' không cùng chiến tuyến là
một đề tài dễ gặp, ngay từ đầu
thập niên 1950 như trong Chiếc Mũ La của
Nguyễn Hoài Văn, Sơn và Thành trong Cánh Hoa Trước
Gió của Nguyễn Minh Lang, đến cuối thập niên
1980 với anh đại tá bộ đội thăm em
bị cải tạo trong Gặp Gỡ Cuối Năm (Cánh
Cửa) của Nhật Tiến, v.v. hay Ḍng Đời (2005)
của Nguyễn Trung mới in trong nước, ám ảnh
với những vấn-đề của cơ chế và
quá-khứ trong đó có những người anh em ruột
thịt đă từng bị chiến tranh tách chia ở hai
bên trận tuyến đối địch, dù trong những
năm tháng chiến tranh, t́nh huynh đệ đă giữ
được cho họ ư nghĩ 'không bao giờ có thể
chĩa ṇng súng vào đầu người em ruột của
ḿnh' nhưng rồi ngày nay xem như 'đất
nước đă chiến thắng cuộc chiến tranh,
nhưng anh chưa chiến thắng được em',
chiến tranh đă phải phân chia thắng bại nhưng
khi phải lựa chọn tương lai cho đất
nước th́ cần phải có đối thoại
giữa những con người của những ư thức
hệ từng đối nghịch nhau. Nhưng đối
thoại có khả thi không với những người
vẫn 'kiên định lập trường' và
văn-nghệ chỉ huy theo cơ chế?
Sau bao nhiêu
năm, trên con đường Nam Bắc hôm nay nhiều
người Việt yêu nước vẫn c̣n đang đi
t́m tổ quốc, một 'tổ quốc', một
đất nước. Các nhật kư t́m thấy của
Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm, các
hồi kư của Trần Vàng Sao, Tiêu Dao Bảo Cự, v.v.
được xuất hiện thời gian gần đây
thêm dấu chứng cho những cuộc t́m hoặc dấn
thân v́ ḷng yêu nước. Tuổi trẻ Thạc, Trâm
chết với tâm nguyện ḿnh yêu nước ḿnh, nhưng
t́nh yêu nước đó của họ không hẳn đă
phát xuất từ trái tim chân chất và ư thức tinh
tuyền của tuổi trẻ mà lịch sử đă
chứng minh họ đă được dạy yêu
nước một cách 'kiên định lập
trường' theo quan điểm. Nhật kư của họ
nằm cùng truyền thống 'cách-mạng' và tiếp
nối sứ mạng tuyên truyền cho một mục
đích phải đạt, cho 'sự nghiệp cách-mạng
của tập thể', và nếu đạt rồi th́
phải giữ. Sống c̣n sau chiến-tranh như Bảo
Ninh, viết lại xúc cảm mà ngay khi xuất-bản
đă bị một chiến dịch kết án đă đi
sai con đường 'văn-học bảo hiểm cho
sự thật lịch-sử' và tác-phẩm bị tố
cáo là 'bệnh hoạn', là viết về một 'cơi
chập chờn bất định'!
Cuộc
chiến đă xong chưa khi mà âm ĩ tiếng bom tàn tích
của quá khứ vẫn c̣n đó? Tùy phía nh́n, tùy cặp
kính mầu mà ta có thể gọi tên cuộc chiến là
"chiến tranh ư thức hệ", chiến tranh
"ủy nhiệm", "giải phóng", "xâm
lược". Phe nào nắm được cái gọi là
"chính nghĩa"? Dù gọi là ǵ th́ sau cuộc nội
chiến nhiều tang thương đó, con người
Việt Nam vẫn bất khả cảm thông và đối
thoại với nhau sao? Như gần đây khi nói
đến nhà văn Thanh Tâm Tuyền, một nhà văn tiêu
biểu của văn-học miền Nam tự do 1954-1975,
vừa mất, trong nước cất lời phê b́nh
như sau: "Đối với độc giả
miền Bắc, cái tên Thanh Tâm Tuyền hoàn toàn xa lạ,
với nhiều độc giả miền Nam cái tên này
gần với một giai đoạn đen tối của
đất nước dưới ách ḱm kẹp của
Mỹ - nguỵ, đó cũng là giai đoạn sáng tác
đắc ư của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, sĩ quan
cộng hoà, với lư tưởng chống cộng
tươi mới vừa chạy ngoài Bắc vào, phục
vụ cho chính quyền nguỵ (...) Sự thất bại
của chế độ bù nh́n cũng là sự thất
bại của tư tưởng văn nghệ chống
cộng. Trên thực chất nền văn nghệ ấy
không có ǵ phù hợp về nội dung với văn nghệ
của chúng ta". Đến nỗi nhà thơ Thanh
Thảo từng tham gia cuộc chiến trước 1975
"ở chiến trường Nam bộ", đọc
bài ông Tân cũng đă phải thốt lên " đọc
nó người ta không khỏi cảm thấy một thoáng
lạnh ḿnh. Chúng ta đang ở năm thứ 6 của
thế kỷ XXI, đất nước đă thống
nhất 31 năm, người Việt dù sống trong
nước hay nước ngoài đều muốn xích
lại gần nhau, xóa đi những dị biệt,
thậm chí những hận thù trong quá khứ, để
cùng chung tay góp sức xây dựng đất nước
Việt Nam trước ngưỡng cửa những
vận hội mới"(28)!
* * *
Nước
Việt Nam tồn tại đến ngày nay là do t́nh yêu
đất nước và tinh thần phản kháng chống
ngoại xâm của nhiều thế hệ con dân và qua
nhiều ngàn năm văn hiến; nhưng Việt Nam ta do
hoàn cảnh địa lư và lịch-sử cùng nhân chủng,
đă từng mở cửa và hội nhập khi cần. V́
bản chất văn-hóa và nhân chủng của
người Việt nhưng cũng v́ sự sinh tồn và
tương lai dân-tộc. Lịch-sử cho chúng ta nhiều
bằng chứng về việc mở cửa hay tùy cơ
ứng biến th́ sống (tam giáo, thắng quân Tàu xâm
lược xong rồi triều cống, ...) mà đóng
cửa th́ thất bại (như triều đ́nh Tự
Đức khi phải đối đầu với
người Pháp và Tây Ban Nha, v.v.). Trong cuộc kháng chiến
1954-1954 cũng như cuộc chiến 1957-1975, guồng máy
chiến-tranh và văn-hóa của miền Bắc đă
cứng rắn đẩy việc chống vong bản
đi quá xa. Họ xếp vào 'chủ nghỉa vong bản'
những sản phẩm văn-hóa, văn minh từ Âu
Mỹ (hoặc do Pháp, Mỹ để lại), kết án
những người sống với tiện nghi kỹ
thuật của thời đại là vong bản, xem thơ
văn ca nhạc ảnh hưởng từ những trào
lưu học thuật mới sau thế chiến thứ
hai chẳng hạn là vong bản, kể cả mác-xít giáo
điều tức những người theo troskisme tức
đệ tứ quốc tế, tất cả, họ
đă tung bao nhiêu chiến dịch rồi cả đặt
bom, ám sát. Năm 1976 họ đă bỏ chung một rọ
toàn bộ báo chí văn-hóa phẩm của miền Nam tự
do 1954-1975 rồi tịch thu, tiêu hủy và cấm đoán.
Tất cả những việc làm này nay đă bị chính
người của chế độ phê phán và họ dùng
lại hết mọi thứ ... 'vong bản', từ sách báo
đến nếp sống! Văn-học chữ quốc
ngữ mới hơn một thế kỷ, vậy mà
từ thời khởi đầu đến nay, lúc nào
'mảng' yêu nước cũng có mặt. Yêu nước
khởi phát từ niềm tin, văn-học yêu nước
Việt-Nam suốt thế kỷ XX đă từ niềm tin
mà xuất hiện, lúc công khai lúc thầm kín, lúc đơn
sơ như tấm ḷng người viết, lúc đạt
đỉnh cao văn-chương. ... Như đă xét qua,
yêu nước không thể ích kỷ, quá khứ dù oai hùng,
thần thánh đến mấy, nếu cứ ôm chặt th́
có ngày cũng vuột mất! Yêu nước oai đẹp
khi tự phát, tự giác hay tự nhận thức, nghĩa
là không v́ chỉ thị, chiêu bài! Xin đừng để
lịch sử che lấp con người!
Chú thích:
1. Trích
từ Thái Bạch. Thi Văn Quốc Cấm Thời
Thuộc Pháp. (SG: Khai Trí, 1968); Đại Nam tb, tr. 211.
2. Vấn
đề định danh và thời điểm của
Nam-kỳ khởi nghỉa, Nam-bộ kháng-chiến và
Chiến-tranh Đông dương thứ nhất
trước nay vẫn không đồng nhất, tùy quan
điểm và chế độ. Trong nước vẫn xem
ngày 23-11-1940 là ngày khởi động Nam-kỳ khởi
nghỉa; Nam-bộ kháng-chiến 23-9-1945 lúc th́ tính từ
tháng 8 lúc th́ văn vẻ gọi là "Mùa Thu rồi ngày
23", v.v. Theo Trần Bạch Đằng trong Đồng
Bằng Sông Cửu Long 40 Năm (NXB TpHCM, 1986), "ngày 23
tháng 11 (1940) Nhân dân Nam Bộ tiến hành cuộc khởi
nghĩa vũ trang dưới sự lănh đạo của
Xứ Ủy Nam-Kỳ" (tr. 183).
3.
Nguyễn Văn Sâm. Văn Chương Nam Bộ Và Cuộc
Kháng Pháp 1945-1950. Los Alamitos CA: Xuân Thu tb, 1988, tr. 21-22. Nghiên
cứu này là một công tŕnh dồi dào tài liệu và tham
khảo, Mă Giang Lân trong giáo tŕnh Văn-học Việt Nam
1945-1954 đă đánh giá là "quyển sách có nhiều
tư liệu quư, hiếm và có những nhận định
thỏa đáng" (tr. 142). Ngoài ra công tŕnh đă
được các tác-giả tập Địa Chí Văn
Hóa Thành Phố HCM dùng lại khi trích dẫn các tác-phẩm
xuất-bản vào thời văn-học này.
4. Lời
giới thiệu của Vũ Anh Khanh. Trích từ Xuân
Tước. Hồi Kư 60 Năm Cầm Bút. Houston TX: Văn
Hóa, 2000. Tr. 48.
5. Hồn
Việt, NXB Đuốc Việt, 1950, tr. 97,98.
6.
Chiến-Sĩ Hành. Thơ trường thiên của
Vũ-Anh Khanh, Tam Ích đề tựa, Thẩm-Thệ Hà
đề bạt, Nguyễn-văn Mười hoạ b́a và
phụ bản, A. Tích Trú kẽ chữ và phụ bản,
Nguyễn văn Dầu khắc bản, nhà xuất-bản
Tân-Việt-Nam, 1949.
7. Lưu
Quí Kỳ. Qua Thực Tiễn Văn Nghệ Kháng Chiến
Nam Bộ. Hà-nội: NXB Văn Hóa, 1958. Tr. 5-6.
8. Lưu
Quí Kỳ. Sđd, tr. 28, 32, 73, 39-40. 9. Trích từ Cách
Mạng Kháng Chiến Và Đời Sống Văn Học
(1945-1954) Hồi Ức Kỷ Niệm. Tập 1. Hà-nội :
Tác Phẩm Mới, 1986, tr. 206.
10. Trích
theo Mă Giang Lân. Văn Học Việt Nam 1945-1954. TpHCM: NXB Giáo
Dục, 2004, tr. 37.
11. Chúng tôi
cảm ơn GS Phan Tấn Tài đă cung cấp tài liệu
này.
12. Cách
Mạng Kháng Chiến Và Đời Sống Văn Học
(1945-1954). Sđd, tr. 350, 348. Truyện viết về
đấu tranh giai cấp giữa nông dân và 'địa
chủ', theo chính sách và chỉ đạo, do đó sau này ông
tự tiếc! Đoàn Giỏi tập kết ra Bắc và
từng bị nghi ngờ trong vụ Nhân Văn giai
phẩm! Một nhà thơ khác, Hoàng Tồ Nguyên cùng tập
kết ra Bắc, bị kiểm điểm, kỷ
luật.
13. Trích
theo Địa Chí Văn Hóa Thành Phố HCM. 2-Văn Học.
1988, tr. 269.
14. Lưu
Quí Kỳ. Sđd, tr. 75-85.
15.
Nguyễn Bá Thành & Bùi Việt Thắng. Văn Học
Việt Nam 1965-1975. Hà-nội: Tủ sách trường ĐH
Tổng hợp, 1990. Tr. 28.
16.
Nguyễn Bá Thành & Bùi Việt Thắng. Sđd, tr. 89.
17.
Nguyễn Vy Khanh. Văn Học Việt-Nam Thế Kỷ XX:
Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại.
Glendale CA: Đại Nam, 2004, chương 16, tr. 491.
18. Văn
Học Yêu Nước Tiến Bộ - Cách Mạng Trên
Văn Đàn Công Khai Sài G̣n 1954-1975. Tp.HCM : Nxb Văn Nghệ
Tp.HCM, 1997.
19. Trích
từ Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến. South Bound
Brook NJ: Thư ấn quán, 2006, tr. 166.
20. X.
"Thảo Trường, nhà văn dấn thân với
nỗi ư thức không rời". Hợp Lưu 88,
4&5-2006, tr. 162-183.
21.
"Cuộc Sống Tôi", Những V́ Sao Vĩnh Biệt,
Saigon : Ư Thức, 1971. tr. 105. Năm 2006, nhà Thư ấn-quán
xuất bản tuyển tập truyện Một Thời Ư
Thức in lại truyện ngắn của 24 cây viết của
tạp chí Ư Thức, 262 tr.
22. Vơ
Phiến. Văn học Miền Nam Tổng Quan. Westminster CA:
Văn Nghệ, 2000, tr. 239.
23. Trích
từ Hoài Anh. Văn Học Nam Bộ Từ Đầu
Đến Giữa Thế Kỷ XX (1900-1954). NXB TpHCM, 1988.
Tr. 360.
24. Xuân
Tước. Sđd, tr. 40.
25. Nhân
Loại, 82, 29-11-1957. Trích lại theo bản Trần Hữu
Tá. Nh́n Lại Một Chặng Đường Văn
Học. NXB TpHCM-Fahasa, 2000. Tr. 436.
26. X. Ngày
Nay TX, 548, 1-5-2005; Đàn Chim Việt (danchimviet.com), 21-12-2005.
27. Phong Lê.
Về Văn Học Việt Nam Hiện Đại -
Nghĩ Tiếp. Hà-nội: NXB ĐHQGHN, 2005, tr. 223-227. Theo
VietNamNet, "ngày 3/11/2006, trong khuôn khổ Hội thảo
Quốc tế Văn học Việt Nam trong bối
cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế, nhà
văn Nguyên Ngọc cho rằng không thể xét văn
học Việt Nam thế kỷ 20 một cách toàn diện
nếu không bao gồm hai mảng văn học mà lâu nay
chúng ta vẫn không tính tới một cách thích đáng, Đó
là văn học đô thị miền Nam trước
năm 1975 và văn học của các tác giả
đương đại người Việt ở
nước ngoài".
28. X.
Vũ Đức Tân. "Sự lập lờ trong đánh
giá về Thanh Tâm Tuyền". Người Hà Nội,
22.9.2006; Thanh Thảo. "Quyết tâm... chụp mũ"
(talawas.org) 23-9-2006.
11-2006