NHÀ VĂN VƠ KỲ ĐIỀN
VÀ D̉NG Ư-THỨC XUYÊN-SUỐT TRONG TÁC-PHẩM
Nguyễn Vy-Khanh
Nhà
văn Vơ Kỳ Điền sinh ngày 30.10.1941 tại Dương Đông,
Phú Quốc, trưởng thành và hành nghề dạy học
ở B́nh Dương (và một thời gian ở Ba Xuyên)
sau khi tốt nghiệp ban Việt Hán Đại học
sư phạm Sài G̣n. Vượt biển đến Mă Lai
năm 1979 và định cư ở Montréal rồi Toronto. Vơ
Kỳ Điền bắt đầu viết văn
khoảng năm 1980, những truyện ngắn đầu
tay của ông xuất hiện trên tờ Dân Quyền ở Montréal và Làng Văn ở Toronto (Canada) trước khi
trở thành một trong những nhà văn góp phần
đánh dấu một giai đoạn văn học lưu
vong nặng chính trị nhất của người
Việt. Tờ Dân Quyền
số 1 ra đầu tháng 2-1978 đến năm 1987
ngưng mặt báo chí, thông tin văn nghệ để tham
gia các liên minh và mặt trận đấu tranh trên các diễn
đàn hải ngoại - nay đi vào quên lăng đối
với các thế hệ sau. Những cây viết của nhóm
như Bắc Phong nay ngưng làm thơ, nhà nghiên cứu
Nguyễn Huy, nhà thơ Vũ Kiện đă mất ở
Québec, Nguyễn Ngọc Ngạn từ bàn đạp
tiểu thuyết chống Cộng trở thành nghệ
sĩ nói, một số khác (đă) đi vào đấu tranh
và số khác nữa sử dụng 'lư tưởng'
để hợp tác với 'kẻ thù' theo ... thời.
Phần tư thế kỷ sau, thời gian và chính trị
thế-giới đă xoay chiều. Cuộc chiến tranh
lạnh đối với nhiều nước và
chiến-tranh Việt-Nam đối với Hoa-Kỳ đă
là chuyện ... tiền kiếp, với người
Việt th́ vết thương chiến-tranh đó có khi
vẫn chưa thành sẹo. Dĩ nhiên nếu không nuôi ...
sẹo như Triều Sơn thời tha hương đi
lính cho Pháp th́ cũng không thể quên vết sẹo
nhiều lúc vẫn làm ngứa tâm can, một loại
sẹo "thế hệ" không dễ ǵ quên. Nhưng,
đời sống vẫn theo dịch lư tuần hoàn và
nước vẫn chảy dưới cầu, mùa Đông
cực Bắc Mỹ có đông giá nhưng nước
vẫn âm ĩ chậm trôi ngầm bên dưới những
tảng băng. Cũng chính thời gian đă cho thấy
Thiện Ác và nhân quả nhăn tiền. Riêng Vơ Kỳ
Điền, sau những trận ... chiến Văn Bút và
nghiêng ngă t́nh đời, t́nh người, ngưng sáng tác
một thời gian, nay h́nh như đă ổn định
cuộc đời và gần đây sáng tác trở lại và
thiên về bút-kư.
1.
"Biến
cố đau thương 30.4.1975 đổ ập xuống
đầu dân chúng miền Nam như trời sập. Trong
cái biển đau khổ tột cùng người
người bị dập vùi như cọng rác trong cơn
sóng lớn" (Lời Tựa Kẻ
Đưa Đường, tr. 6). Biến cố
đến như một tai họa bất chợt;
lịch-sử như bị cắt đứt, hiện
tại với quá khứ như không c̣n liên hệ, ít ra là
kẻ cưỡng chiếm miền Nam cũng muốn
như vậy. Viết lại lịch-sử giai
đoạn này cũng là một vấn nạn v́ phe nào
cũng có những chủ quan và thị-kiến riêng.
Người viết sử chân chính có những khó khăn
khi đụng đến thời đại vừa
mới qua, quá gần. Nhà văn ngược lại, tương
đối không bị những trói buộc khách quan đó.
Tác-phẩm trở nên công cụ của chứng giám
lịch-sử, với những h́nh thức và kỹ
thuật tự truyện, bút kư và tiểu-thuyết : nhà
văn và người đồng thời là những
chất liệu sống động. Văn bản,
tác-phẩm văn-chương trở thành bằng
chứng, là kết quả của chứng giám, của
những ǵ được nghe, được nh́n thấy.
Sự việc tự nó không là bằng chứng nếu không
được trăi qua tiến tŕnh ghi nhận. Nhân chứng
trở thành phát-ngôn viên của một chân lư, tường
tŕnh cái đă sống, đă để lại dấu vết,
đă c̣n nhớ lại. Sử gia sẽ đến sau, lúc
tro tàn đă lắng xuống và từ những chứng giám
đó mà khai triển, cân nhắc đánh giá sự kiện
và chân lư trên là chân lư kiến thức hay chân lư của ḷng
tin, hay cả hai.
Mặt
khác, nhân chứng tự bản chất là dấn thân, muốn
nói lên, muốn trả lời về sự thật,
trước tha nhân - những người đang nghe
đang đọc, hoặc hậu thế. Lời chứng
như vậy nhập vào một hệ thống
diễn-văn, nơi biến cố và ngôn-ngữ gặp
nhau; khiến hiện thực và ngôn-ngữ có mối liên
hệ mật thiết, nối kết chứng giám sự
kiện và chứng giám ư nghĩa. Vơ Kỳ Điền
đă nhận vai tṛ làm nhà văn chứng giám, một nhân
chứng và là một người dân Việt muốn
sống yên cũng đă không được nữa, khi
'trời đất nổi cơn gió bụi', 'đất
bằng nổi sóng', các biến cố lịch-sử đă
ùa đến phủ lên người những tai
ương, bất hạnh, ... Từ thân phận nhà giáo,
ông thầy Vơ Tấn Phước (tên thật) bị
lửa loạn lịch-sử cuốn hút, thoát ra
đến hải-ngoại trở thành nhà văn nhân
chứng Vơ Kỳ Điền. Trong Lời Tựa tập
truyện Kẻ Đưa
Đường, ông cho biết lư do viết :
"văn-chương đích thực phải là tiếng
nói của kẻ yếu dad61u tranh chống độc tài,
áp bức, bạo lực, bất công bất cứ từ
đâu đến. Nó phải chống bất cứ h́nh
thức nô lệ nào, chống sự ngu xuẩn, hầu
đưa Con Người vươn lên từ
tăm-tối-đổ-vỡ" (tr. 8). Khi viết Pulau Bidong, Miền Đất
Lạ (1992), ông cho biết đă quyết định
phải viết cho con cháu sau này "hiểu tại sao
cả nhà phải liều chết ra đi ăn đậu
ở nhờ xứ người".
Với
tập truyện Kẻ
Đưa Đường (Viet Publications, 1986), Vơ Kỳ
Điền đă nói lên tiếng nói chống độc tài
và ngu xuẩn của một loại 'con người'
(Lời Tựa). Phần lớn là những chuyện
đổi đời sau 1975 qua các nhân vật chân chất
quê mùa, ở tỉnh nhỏ nhưng tinh thần chống áp
bức lộ rơ, như bác Năm hớt tóc, ông Bảy
thợ rèn, chú Bảy C̣, qua nhân-vật các cán bộ từ
bưng biền ra và từ Bắc vào tiếp thu
trường học, cơ sở, "tiếp thu"
cả ... con chó của Ty giáo dục; qua các chuyện
trả thù cán bộ, "sửa lưng" cán bộ quá
thuộc ḷng những bài bản tuyên truyền, v.v. Nói chung,
những bức tranh bi hài về con người và xă
hội "mới" cùng những ngậm ngùi cho nếp
sống nhân bản vừa mất!
Chốn
học đường thân yêu của tác-giả đă là sân
khấu 'giải phóng' và 'cách mạng' : chuyện Qú,
một anh học tṛ cũ vô bưng nay trở về
tiếp thu ngôi trường cũ : "Qú thay đổi
hẵn ra. Đầu đội nón tai bèo, chân mang dép râu, bên
hông đeo khẩu súng ngắn, vai mang chiếc bóp da. Nó ngồi tại cái bàn của ông
Hiệu Trưởng, thân thể có hơi ốm hơn lúc
trước, cộng thêm nét dày dạn, đen đúa, phong
sương. Duy cặp môi và ánh mắt th́ khác nhiều.
Cặp môi thâm hơn. Vẻ trưởng thành, già giặn
hiện rơ trên khuôn mặt.
Những ngày đầu tháng năm, biểu ngữ
cờ sao đầy phố.
Trường tôi cũng đỏ rực một màu
cờ máu. Ông Hiệu
Trưởng, vốn đă nhỏ con, bây giờ gầy tóp
lại. Cái cà-vạt
thường ngày không c̣n. Ông lại bỏ áo ra ngoài, chưn
mang dép, coi cũng có vẻ giác ngộ cách mạng" (Đá
Hoa-Cương, KĐĐ tr. 80-81). Nhưng theo 'cách
mạng' th́ sao đọ
được với 'chuyên chính' : vài tháng sau, Qú bị
một cán bộ "ở ngoài Bắc vô, tốt nghiệp
Đại Học Sư Phạm Thanh Hoá, mười
mấy tuổi đảng" vào thay thế. Ông thầy,
thuộc phe 'thua', an ủi học tṛ cũ : "...
Đừng mong làm hoa hướng-dương, suốt ngày
ngước mắt nh́n mặt trời hoài mỏi cổ
lắm. Cũng đừng thèm làm đá xanh cứ phải
lót đường cho người ta đi. Em phải
nhớ một điều, v́ lư tưởng cao cả, chúng
ta có thể chấp nhận hy sinh thân xác để bón lúa,
chớ đừng bao giờ dùng nó làm phân để bón cho
thứ cỏ dại sinh sôi nẩy nở..."
(KĐĐ tr. 84).
Trong
Con Chó Đi Lạc, trong một thời gian mà đổi
hiệu-trưởng đến ba lần, người
cuối cùng là 'anh Chín', đảng viên, nói nhiều chữ
khó hiểu như "cái ǵ mà 'đại bộ phận'
'hạ quyết tâm' 'chủ yếu' 'động viên'
'quản lư',...". 'Anh' Chín hiệu trưởng nói láo
để giựt cho bằng được con chó" mà
'chú Cân' tùy phái đă t́nh cờ bắt được,
trước phản ứng lật tẩy của
người tùy phái, 'anh' Chín bèn toa rập với Sáu
Việt trưởng Ty Giáo Dục đế cướp
con chó để cùng chén chú chén anh. Những thứ con
người 'siêu việt' ... chiến thắng đớp
chả chó mà c̣n tự đề cao: "-Đúng
đấy, con chó béo bở như thế nầy, phải
dành cho dân cán bộ Hà Nội chính cống bọn ḿnh
bồi dưỡng mới đúng. Chứ để cho
bọn Nam bộ ấy mà thịt con cầy nầy th́ phí
lắm. Tụi nó có làm ra tṛ trống ǵ. Giá mà không có mưu
kế của chúng ḿnh th́ nó đă lọt vào tay cái thằng
ǵ... ǵ ấy nhĩ, ôi chao hỏng bét ! Cứ kể như là vất
đi" (KĐĐ tr. 108).
Một
nhân-vật khác, ông Bảy thợ rèn, người chỉ
tin những ǵ trông thấy, nên đă không tin trái đất
tṛn và không tin lời bác Cơ bán phở, một người
Bắc di cư vô Nam sau hiệp định Genève, v́ bác kể
“ngoài Bắc người dân sống khổ cực. Công an
ḱm kẹp, theo dơi, bắt bớ. Dân chúng làm quần
quật mà không có ăn. Nhà cửa, đất đai, xe
cộ ǵ cũng bị tịch thâu hết. Sống thua con
ḅ, con heo !”. Ông Bảy hùng hồn phản bác và cho
rằng "Người làm cách mạng, cũng như tao
rèn cục sắt, chỗ nào cao phải đập cho
dẹp xuống, chỗ nào thấp phải g̣ cho cao lên.
Như vậy mới gọi là cách mạng. Nếu cách
mạng sai lầm, sao tao với ông ngoại mầy cho chú
Út với cậu Bảy mầy đi ra Bắc ? ... Cộng
sản là công bằng” (KĐĐ tr. 40, 41). Nhưng sau biến
cố năm 1975, Ông Bảy thất vọng về ‘cách
mạng’ của Hà-nội: “Ông Bảy cuời mỉa : -Hứ,
rèn cái kiểu cộng sản. Tụi nó nhắm mắt
lại mà đập. Chỗ cao xẹp xuống đă
đành, chỗ thấp cũng dẹp lép. Tao già như
vậy mà hôm trước c̣n bị giáo dục. Ngày lễ
mừng sinh nhựt cụ Hồ có lịnh phải treo
cờ trước nhà. Nhà tao bây giờ thục tuốt phía
sau, nó là cái garage, có phải là cái nhà đâu. Vậy mà
thằng công an khu vực đi sồng sọc vào giữa
nhà, hăm he đủ thứ. Tao đành phải đi
kiếm mua để treo...". Tác-giả kết
truyện : " Ông Bảy nói tới đó, ngồi
thở dốc. Nỗi bực tức làm ông mệt nḥai.
Không giận sao được, cả đời ông
đầu tư trọn vẹn t́nh yêu vào cách mạng,
nghĩa là trong đó có thằng con trai út của ông. Nào
ngờ ông đă lỗ vốn nặng. Cách mạng về
ấm no hạnh phúc t́m ḥai không thấy. Chung quanh chỉ có
khóc than đói khổ, tức tưởi, căm hờn.
Riêng chú Út mặt mày giống hệch ông nhưng t́nh cảm
và ư nghĩ giống Bác và Đăng. Cái giây liên hệ cha con
mong manh quá. Ông Bảy phải trên hai mươi năm
mới thấy điều đó. Ông đă trồng cái cây
“cách mạng” thật là công phu, bây giờ lại hái cái trái
đắng nghét” (Ông Bảy Thợ Rèn, KĐĐ tr. 44). Th́
cũng có khác nào các Năm hớt tóc, sau 1975, "cuộc
đời bác biến đổi từ đủ ăn
xuống nghèo, từ nghèo xuống tới mức mạt
rệp. Thời gian để phấn đấu được
tới nghèo đói là năm mươi năm làm việc
cực nhọc (...) Cuộc cách mạng bây giờ quá to tát,
v́ phải nhân danh nhiều thứ nên hiện tại bác
Năm c̣n được cái quần xà lỏn đen, ở
trần phơi xương sống xương sườn
mà đứng hớt tóc nơi cái xóm b́nh dân hẻo lánh
nầy" (Bác Năm Hớt Tóc, KĐĐ tr. 20).
2.
Trời
đất đă nổi cơn gió bụi, đất lành
thành hang cọp, ḷng người hiền hoà đất
miền đông và cả miền Nam một sớm một
chiều thành ḷng lang dạ thú; con người đành
bỏ quê nhà mà đi, ra biển, về nơi vô
định. Trong truyện dài Pulau
Bidong, Miền Đất Lạ, viết từ năm
1981, 10 năm sau đăng từng kỳ trên Tập-san Y
Sĩ (Montréal) trước khi nhà Xuân Thu ở Cali xuất
bản năm 1992, Vơ Kỳ Điền tả cuộc ra
đi đầy bất trắc và bi thương của
những người dân b́nh thường không thể
sống chung với con người cộng-sản.
Truyện dài này cho người đọc nhận ra
một t́nh thâm thắm thiết nơi tác giả đối
với người thân của ông cũng như với
những con người đồng cảnh ngộ
thuyền nhân. Truyện đánh dấu biến cố
lớn đồng thời cũng là vết thương
tích đối với lương tâm nhân loại :
thuyền nhân (boat-people)!
Cuộc
sống tị nạn, lưu vong ở xứ người
(Bóng Nguyệt Ḷng Sông, Một Thời Để Yêu, Rêu Phong
Mấy Lớp, ...), từ căn bản đă là biến
thiên, nương chiều theo cuộc đổi thay, ngon
th́ oai hùng vẫy vùng (thật sự), tệ th́ cũng lo
cho cái sống c̣n lẽo đẽo theo kiếp người;
tuổi già và tàn tạ nhân sinh th́ ở đâu cũng không
thể tránh!
Trong
Rêu Phong Mấy Lớp, Vơ Kỳ Điền kể
chuyện ông bà
Năm, một cặp vợ chồng già
đ́nh cư ở Montréal (!) mà lúc nào cũng cứ ngỡ
c̣n trong tầm mắt thấy "nhà ḿnh" nơi
quê-hương xa xôi. Khi gặp lại người quen
mới qua định cư hỏi thăm mới biết
cơn gió bụi đă đến với cả "nhà
ḿnh" : những cây nhăn, cây mận và cả cây mai già
giữa sân đă bị con người chế độ
mới đốn ngă để làm hợp tác xă:
"
... Ông Năm ngồi dán người xuống ghế,
lỗ tai lùng bùng. Ông thấy những biểu ngữ
giăng giăng, những rừng cờ đỏ sắt
máu, những đoàn người mặt đầy hận
thù tràn vào tỉnh lỵ, tiếng nhạc đập
đùng đùng chói tai. Ông thấy rất rơ những
đứa con ông, những đứa cháu ông lần
lượt bị bắt giam. Ông thấy tận mắt
người ta bị bắt giết, đánh đập,
giam cầm... Ông thấy những cảnh chia ly, đầy
đọa, tang tóc, khổ đau. Ông thấy
được những việc, những người mà cả
đời chưa bao giờ được thấy qua.
Tất cả đều quá lạ lùng, không thể nghĩ
đến nổi. Xă hội mới, đất
nước đổi mới là vậy đó sao ? Ông có quá
lỗi thời, cũ kỹ, già nua ? Cái nhà bê tông cốt
sắt trong đầu quay ṃng ṃng, tấm h́nh trong tay
rơi xuống đất nhẹ đến nổi không
nghe tiếng. Bên tai, ông nghe tiếng vợ móm mém, nói văng
vẳng khi gần khi xa:
-
À, nó nói cái năm mà vợ chồng ḿnh hiến nhà cho nhà
nước để được đi đó, hồi
chưa bị chặt th́ cây mai trổ bông nhiều lắm,
rụng vàng cả đường đi!
Ông
Năm bất động, hồi lâu tỉnh lại nói nho
nhỏ:
-Tại
sao ḿnh đi mà nó lại không biết, trổ bông chi cho
nhiều vậy! Tại sao vậy ? Nó không biết
thương tôi với bà sao mà... Hay là nó chưa biết nhà
đă đổi chủ từ lâu!".
Trong
Câu Hỏi Kiếp Người, người t́nh đầu
đời gặp lại nơi xứ người khi
đôi bên đă yên bề gia thất, câu hỏi 'anh có
hạnh phúc không?' trở thành cái nợ đời mà
nhân-vật Hoàng 'tưởng sẽ không bao giờ trả
được và măi măi'! Truyện Bếp Hồng (c̣n có tựa
Bếp Lạnh) là
một trong những sáng tác thuộc giai đoạn sau này.
Nơi đây là một Bếp Hồng tức không phải
là Bếp Lửa như
đối với Thanh Tâm Tuyền thời tuổi đôi
mươi; mà ở đây, nơi xứ người, cái
làm ấm cuộc đời vẫn là những t́nh thâm dù
hệ lụy. Ngọn lửa không những cần cho
những món lương-thực trần-gian, mà c̣n là cái không
thể thiếu cho con người, cái làm sống và đem
hương vị đến cho đời !
Ở
tác-phẩm dù không nhiều của Vơ Kỳ Điền,
người đọc sẽ khám phá một số mảnh
đời của người Việt-Nam sau biến
cố tháng 4-1975, những cuộc phiêu lưu t́m sự
sống và tự do của thuyền nhân cũng như
đời sống ở xứ người, trẻ có, già
có và có một số rất riêng nhưng đa số là
phận chung.
3. Ư-thức xuyên suốt
tác-phẩm
Nói
một cách tổng quát, văn phong một tác-giả
thường theo một đơn chất hay nhất quán :
nhất quán về hành văn, giọng văn, về văn
bản; đơn chất của tác-giả và của
cả độc giả - độc giả nào, tác-giả
nấy! Đây có thể gọi là ư-thức hệ của
văn bản. Một tin tưởng nhân bản, một
cốt-lơi làm một, làm nền cho văn bản. Viết,
đối với Vơ Kỳ Điền là để dóng lên
một tiếng nói cố vạch rơ (nhắm tố cáo, dù
có thể không nói ra) những hành động và lời nói
lừa lọc, phỉnh gạt người dân, những
lừa dối 'nguyên chất' (không thể có biện minh).
Qua các tác-phẩm-chứng-từ, tác-giả đă vẽ
lại những mẫu, những nét, những mảnh
đời dở dang. Ông đă trở về quá-khứ
để thấy rơ quá-tŕnh của nhân-vật và để
biện minh tâm lư các nhân-vật và như vậy, đưa
ư thức vào văn phong sử dụng để kể
lại những tàn bạo và bất nhân của những con
người (thắng một trận chiến) đă
xảy ra trong một lịch-sử gần. Giọng
văn Vơ Kỳ Điền mang nét phúng thích, phúng thích những cái gọi là
khách quan của 'chân-lư' (áp đặt!).
Sau
tháng Tư 1975 (và cho đến 30, 35 năm sau), miền Nam
bị người Bắc phương biến thành
địa ngục và hầu như mọi người
đều là nạn nhân, bất kể tuổi tác:
"Chị Sáu ơi, trong các thứ định mạng
ở cái cơi đời nầy, th́ Cộng Sản là cái
thứ định mạng khắc nghiệt nhứt. Nó là chén thuốc độc
cuối cùng bắt cháu Thuỷ uống từ giọt,
từ giọt,..".(Bóng Nguyệt Ḷng Sông, KĐĐ tr.
150). Trí thức hay dân thường đều trở thành
nạn nhân, tài sản, sự nghiệp có thể bị
tước mất, nhưng nạn nhân vẫn c̣n khí
giới lư-trí và ngôn-ngữ qua những lời nói đùa, nói
đía, châm biếm, trào phúng, nhại, nói ngược, nêu
đích danh, nói thẳng thừng, thách đố, vạch
mặt láo là láo, hứa hăo là hăo, là gian, ... trước
những t́nh cảnh bất b́nh, t́nh thế tréo cẳng
ngỗng. Bi quan, thất vọng, mất tin tưởng,
bất hạnh v́ trớ trêu của con Tạo, lời nói
trong t́nh cảnh đó có thể lật ngược t́nh
thế, một gỡ nút bất ngờ.
Con
chữ bóng gió hay thẳng thừng, tất cả, trong
một hoàn cảnh nào đó, đă muốn sự thật
sáng tỏ, ngầm muốn đặt lại tôn ti cao
thấp dù đang bị kẻ 'thắng' cưỡng
chế lập lại bảng giá trị (kẻ thắng,
người thua, kẻ 'giải phóng', người
thuộc về ngụy, địch, cán bộ 30, nằm
vùng nay ra mặt, ...). Tả cán bộ Việt cộng th́ :
"... cán bộ áo trắng, bộ đội áo kaki màu cứt
ngựa xanh đùng đục, mang dép râu"(PBMĐL tr.
14). Hay những cảnh
sống :
-
"Cho đến một ngày mà người ta nuôi heo trong
dinh Độc Lập hoặc xúm nhau cởi trần
bửa củi ở trước sân ṭa Đại sứ
Anh th́ tôi quay trở về tỉnh cũ với một tâm
sự rối bời. Ngoài đường xe phóng thanh
chạy rầm rộ khắp phố. Những điệu
nhạc lạ lùng khó nghe, chói tai vang dội, nửa như
vui mừng chiến thắng, nửa như đe
dọa..." (KĐĐ, tr. 19)
-
"Từ ngày mấy ổng bỏ rừng về thành
phố, toàn dân miền Nam đâm thất nghiệp. Vợ
con công chức quân nhân chế độ cũ, chồng cha
bị đày đi một nơi khỉ ho c̣ gáy nào đó,
ở nhà túng quẩn, phải bương chải tảo
tần, kiếm kế sinh nhai, hầu sống c̣n qua
ngày. Họ trở thành bạn
hàng buôn thúng bán bưng bất đắc dĩ".
(PBMĐL, tr. 14).
Văn-chương
trở thành chứng-từ,
Vơ Kỳ Điền đă tấn công mưu đồ
giấu sau những mỹ từ, vạch mặt lời và
cách nói vẽ rồng vẽ rắn, so với thực
tại tệ hại, sự thật đau ḷng
trước mắt. Phúng thích ở Vơ Kỳ Điền và
hoàn cảnh miền Nam sau 30-4-1975, c̣n mang tầm vóc
lịch-sử quan trọng của một tập thể dù
bị 'thua'. Nh́n nhận phúng thích như khí giới c̣n
lại và sử dụng tài t́nh tùy hoàn cảnh, đó là
đặc tính chính-trị nhân bản có từ xa xưa,
trước cả thời Khổng-tử. Phúng thích không
chỉ là một phương tiện của lư trí, trí
thức, mà c̣n là một tham gia nhập cuộc vào cuộc
tranh đấu chung có tính chính-trị - tức liên hệ
giữa người với người, một cuộc
đấu tranh có chiều sâu và viễn tính. Những ca dao,
văn vè truyền khẩu đă là những khí giới c̣n
lại, không bạo lực nhưng hiệu quả, của
người bị trị chống toàn trị và tàn
bạo, những phê phán của 'miệng đời',
của kho tàng văn chương truyền khẩu dân gian,
tất cả sẽ ở lại cùng lịch-sử:
- Nam-Kỳ Khởi-Nghĩa
tiêu Công-Lư
Đồng-Khởi
vùng lên mất Tự-Do.
- Vẹm vào, vênh váo, vơ vét, vội vù !
- Miền Nam nhận Họ, miền Bắc
nhận Hàng
- Đôi dép-râu dẫm nát hồn son-trẻ
Chiếc nón
tai-bèo che khuất nẻo tương-lai.
v.v.
Nhà
văn nhân-chứng Vơ Kỳ Điền đă sống,
đă là nạn nhân và đă nh́n thấy, đă hiểu
chế độ mới áp đặt, khi đặt bút
viết, ông đă làm công việc một sáng tạo ngữ
pháp: con chữ phản ảnh thực tại mới,
phản ảnh nhận thức và ư tưởng và những
cái 'Tôi' và 'chúng ta' nhập trùng làm một. Cái 'Tôi' biến
mất, bị chối bỏ, bị vô hiệu hóa,
nhường chỗ cho cái 'chúng ta' tập thể trong
một xă hội mà cá nhân (và tập thể phe 'thua') bị
thu hẹp, bé nhỏ, vô nghĩa một cách cưỡng bách
trong khi cái thậm xưng 'chúng ta' có mặt khắp nơi,
cưỡng chiếm hết mọi của cải, tiện
nghi và ngay cả bóng cây, hơi thở hay riêng tư thầm
kín (tiếp thu, tố cáo, kiểm thảo, tự kiểm
thảo). Cái 'chúng ta' mới này không có mặt những 'cái
Tôi' của phe thua, 'thua' nhưng là chủ nhân chính thức
của miền đất do tổ tiên để lại,
'thua' dù không tham gia chiến-tranh, phe phái! Trở thành số
không suốt bốn năm trước khi tác-giả
cực chẳng đă, phải quyết định bỏ
quê-hương mà đi t́m sự sống con người :
"Gần trên bốn năm nay rồi tôi sống im
lặng, vật vờ, thu ḿnh như một cái bóng mờ,
lặng thinh câm nín. Một chút động tĩnh cũng
không dám. Người ta hoài nghi, xoi mói, ŕnh ṃ ..."
(PBMĐL tr. 20). Như ông giáo Hưng trong Một Thời
Để Yêu: "Đi đâu cũng được,
miễn là khỏi phải sống một cuộc
đời cực nhục, khổ sở, dưới bàn
tay sắt máu, của bọn người vô tâm" (tr. 135).
Đến
được các đảo tị nạn chưa hẵn
đă thoát đau khổ, như chỉ mới chực ra
tới bậc cửa địa ngục. Hoàng, một
nhân-vật trong Bóng Nguyệt Ḷng Sông đă kể lại:
"Ở đây mỗi ngày tôi được chứng
kiến hàng bao nhiêu thảm kịch mà đồng bào
phải gánh chịu. Chết chóc, đói khát, bịnh
tật, băo tố, hăm hiếp, giam cầm, đánh
đập, con mất cha, vợ lạc chồng,
người nào người nấy xơ xác như trái
mướp phơi khô, tàn tạ, ủ rũ như cây căi
hết nước. Nỗi
bất hạnh của gia đ́nh chúng tôi có thấm thía ǵ
với cái bất hạnh của cả một dân tộc
bị đọa đầy". (KĐĐ tr. 151).
Người
ra đi v́ không c̣n lựa chọn, như 'chú Hai thợ
bạc, quê ở Sóc Trăng' trong truyện Cây Sầu Riêng
Vườn Cũ: "Tại bên ḿnh khó sống quá, vừa
nhức đầu, vừa nghẹt thở, nên phải
đi. Chớ vui vẻ ǵ. Tôi đâu có muốn nhưng hoàn
cảnh bắt buộc. Thầy tư nghĩ coi, cái
tiệm thợ bạc nhỏ xíu cũng bị tịch
thâu. Thôi đành dẹp
kềm, dẹp búa. Tôi làm đơn xin về quê làm
ruộng. Nhà nước cũng không cho, bắt phải
đi xây dựng kinh tế mới.
Cái chế độ ǵ có mắt không được
nh́n, có tai không được nghe, có miệng không
được nói, th́ ở lại làm ǵ. Nói thiệt với thầy tư,
tôi ngồi đây mà đầu óc vẫn nhớ Băi Xàu. Trước
nhà tôi có cái rạch nhỏ, chiều chiều ra đằng
trước câu cá, cũng đủ vui. Lớn tuổi rồi, đâu c̣n
ham muốn ǵ nữa!"(KĐĐ tr. 64-5).
Trong
các tác phẩm ở giai đoạn đầu, nhất là
trong các truyện ngắn, Vơ Kỳ Điền tỏ
lộ một văn phong miền Nam đặc biệt,
không quá "miệt vườn" như Hồ
Trường An, Nguyễn Tấn Hưng, Nguyễn
Đức Lập, cũng không quá ... 'nóng' như văn
Kiệt Tấn, Cao
B́nh Minh, nhưng gần với Nguyễn
Văn Sâm - có thể v́ cùng gốc mô phạm! Các truyện
viết về sau của Vơ Kỳ Điền mang chất
kư, nhiều hoài niệm và triết lư nhẹ nhàng, tức là
ông theo khuynh hướng tự-sự trội bật
của mảng văn học hải ngoại những
năm cuối thế kỷ XX và đầu một thiên
niên kỷ mới. Ng̣i bút Vơ Kỳ Điền trước
sau luôn đi sâu thám hiểm t́nh người, ông muốn
chạm những ngơ ngách bí hiểm mà chỉ có cuộc
đời kinh qua mới nhận ra được!
Giọng văn Vơ Kỳ Điền mang tiếc nuối,
nhung nhớ, ... ngay cả ở những hoàn cảnh
phải phản ứng, đối kháng, phẫn nộ,
giọng văn vẫn không hề tàn độc, thâm
hiểm! Với ông, h́nh ảnh, chứng từ là đă quá
đầy đủ !
Nguyễn
Vy Khanh
2-2008