MỘT SỐ
GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC
MIỀN NAM LỤC
TỈNH 1954-1975
Nguyễn Vy-Khanh
Hiệp
định Genève 7-1954 chia đôi nước Việt Nam,
chính thức công nhận sự thành công của chủ
nghĩa cộng sản quốc tế ở nửa
phần đất nước, vô t́nh bắt buộc chính
phủ và người dân miền Nam nghĩ đến
chủ quyền và xây dựng một miền Nam hùng
mạnh và độc lập. Củng cố cái c̣n lại,
xác định chỗ đứng với quốc tế và dân
tộc. Trong hoàn cảnh mới đó của đất
nước, biên giới địa lư thay đổi,
sự di cư và tập hợp của người
Việt đủ nguồn gốc, Nam Trung Bắc đă
mất đi nhưng không mất hẳn ư nghĩa phân
rẽ của thời thực dân, văn học miền Nam
cũng sẽ có những biến đổi quan trọng.
Cá tính "miền Nam lục tỉnh" và "Sài G̣n"
sẽ phải chịu những phân thân, hóa thân và hội
nhập để dần biến dạng trong biển
văn nghệ "miền Nam cộng ḥa". Ngược
lại, các tác giả Bắc và Trung đă nhận phần
nào ảnh hưởng của tiếng nói và tâm tính
người vùng đất mới qua các tác phẩm của
họ. Trong bài này, chúng tôi thử t́m và xác định
lại những nét tiêu biểu và giới thiệu một
số tác giả của miền Nam lục tỉnh của
giai đoạn 1954-1975.
Cuộc di cư năm 1954 đă thay
đổi bộ mặt văn học nghệ thuật
miền Nam cho đến thời điễm ấy chủ
động bởi người địa phương mà
nơi hoạt động mạnh là Huế, Qui Nhơn, Nha
Trang, Cần Thơ và nhất là Sài G̣n. Sài G̣n thủ đô
Nam phần đă là nơi sinh hoạt báo chí và văn
học nghệ thuật chủ yếu và nhiều nhà báo và
văn nghệ sĩ gốc Trung và Bắc đă đến
lập nghiệp hoặc công tác.
Viết về giai đoạn văn
học miền Nam 1954-1975, các nhà phê b́nh và biên khảo
thường theo một cách nh́n theo đó nền văn
học này là tiếp nối tự nhiên của văn
học miền Bắc trước đó hoặc vai tṛ
của miền Nam không được đánh giá đúng
mức. Nguyên Sa, Du Tử Lê, Tạ Tỵ, Mai Thảo, v.v.
trong các bài đăng báo hoặc in trong các tuyển tập,
đă nh́n giai đoạn này như có đó và như thế
với từng ấy người mà không đi sâu vào
những khúc mắc h́nh thành nền văn chương
đó. Mai Thảo trong số ra mắt tạp chí Sáng
Tạo đă nói văn nghệ từ thủ đô Hà
Nội chuyển vào thủ đô văn hóa Sài G̣n (1). Cao Huy
Khanh trong loạt bài biên khảo về 20 năm tiểu thuyết
miền Nam (1954-1973) đăng nhiều kỳ trên tạp
chí Thời Tập trước 1975 đă phân tích nền
văn học đó như sự lớn dậy của
một con người từ mới sinh đến khi khôn
lớn. Họ Cao là người đầu tiên viết
về giai đoạn văn học 1954-1973 (ông dùng thời
điểm hiệp định Paris) nhưng chỉ
mới được 4,5 bài dẫn nhập th́ đă
xảy ra biến cố 30-4-75, sau đó không thấy ông
xuất hiện trên báo chí (2)! Nhà văn Vơ Phiến, trong Hai
Mươi Năm Văn Học Miền Nam (3), đă có cái
nh́n tổng hợp hơn và đă công b́nh dành cho miền Nam
"lục tỉnh" một vai tṛ h́nh thành và xuất
phát cho nền văn học 1954-1975. Tuy nhiên, Vơ Phiến
đă không đánh giá đúng mức tác phẩm của các
nhà văn miền Nam thời kháng Pháp ngay trước đó
là thời Sài-G̣n rất sôi động về chính trị và
cách mạng trong khi Hà Nội sôi nổi về quân sự.
Khuynh hướng văn nghệ đấu tranh này đă
lớn mạnh và đa dạng ở Sài-G̣n trong khi văn
nghệ kháng chiến ở phía Bắc đă phải
chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
đảng cộng sản ngay từ những ngày
đầu; một khuynh hướng nẩy mầm từ
những Trương Duy Toản, Lê Hoằng Mưu,
Phạm Minh Kiên, Tân Dân Tử, ... của những thập
niên 20 và 30 là thời văn học miền Bắc đang
lăng mạn đến đẫm lệ và tự tử
với những Cành Hoa Điểm Tuyết, Tuyết
Hồng Lệ Sử, Tố Tâm, v.v. Viết về 20
năm văn học đó mà cứ nói đến các nhóm
Sáng Tạo, Quan Điểm, Văn Hóa Ngày Nay, v.v. mà quên các
nhóm "bản xứ" khác là một thiếu sót
lớn! Văn học miền Nam đă có từ 1865,
vẫn tiếp tục phát triển song hành hoặc hoà nhập
nền văn học Việt Nam nói chung, hay từ năm
1954, miền Nam có văn học khác, mới? Theo thiển ư
nên phân biệt ba ḍng văn học tại miền Nam
từ 1954 đến 1975 mà nếu công bằng ta có thể
ghi nhận : một thuần Nam, từ Petrus Kư qua Hồ
Biểu Chánh đến Phi Vân, B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam,
Vương Hồng Sển, ... b́nh dân hoặc trưởng
giả trí thức với những đ̣i hỏi thông thường
những giá trị dân chủ của Cách mạng Pháp 1789;
một ḍng giữa gồm miền Nam cộng với Trung
và một ít Bắc đă khởi từ trước 1954,
thiên chính trị cách mạng và công bằng xă hội; và ḍng
cuối là ḍng nước mới từ miền Bắc di
cư vào từ 1954, ḍng trí thức tiểu tư sản và
chính trị lư thuyết. Trong hơn 20 năm, ba ḍng văn
học đó đă sống chung, đă nhập làm một
dưới biểu tượng dân chủ và cộng ḥa.
Việc định ư nghĩa hai chữ
"miền Nam" cũng đă hiếm có đồng
thuận. Từ ngữ "miền Nam" có thể
để chỉ "Đàng Trong" - tên chữ là Nam Hà,
từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, từ vĩ
tuyến 17 trở vào từ hiệp định Genève
20-4-1954 mà cũng c̣n có nghĩa là "xứ Đồng
Nai", "Gia Định thành" thời Gia Long
đến thời Thiệu Trị trở thành
"Nam-kỳ lục tỉnh". Nói đến
lục-tỉnh là nói bao gồm lưu vực sông Cửu
Long, Tiền giang và Hậu giang, và lưu vực sông
Đồng Nai. Từ năm 1956, chính quyền Sài G̣n chính
thức đổi thành Nam phần để phân biệt với
Trung phần và cả hai cùng thuộc về miền Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam dùng từ "Nam
bộ" để gọi chung Nam-kỳ lục-tỉnh.
Trong bài này chúng tôi bàn về miền Nam từ vĩ
tuyến 17 trở vào nhưng mục đích ghi nhận
những đặc điểm "lục tỉnh"
của văn nghệ miền Nam, tạm gọi là
"Nam-tính", Nam viết hoa.
Miền Nam của những năm
đầu sau 1954 trước hết có nghĩa là tự
do. Tự do trong chính trị, tự do của hết
chiến tranh. Tự do của tái dựng cuộc
đời, của thiên cư dù trong đổi thay đă có
những bi kịch cho tập thể và cá nhân. Và tự do
trong văn nghệ! Tuy nhiên cái tự do này sẽ bị hoàn
cảnh mới về chính trị giảm thiểu đi
phần nào, dù vậy vẫn giúp phát triển những cái
mới trong văn nghệ như nhóm Sáng Tạo, thơ
tự do, thơ lục bát mới, thơ văn xuôi, vv.
Để đối phó với đấu tranh chính trị
mà miền Bắc vẫn tiếp tục, dù sao th́ tổng
tuyển cử mà hiệp định đ́nh chiến
đă quy định vẫn như lưỡi kiếm
Damoclès lơ lững trên sự sống c̣n của cả
miền Nam. Người dân miền đất mới
đă phải bắt tay xây nền móng. Một văn
nghệ tâm lư chiến phục vụ giai đoạn sẽ
nằm trong nỗ lực vô hiệu hóa mũi dùi của
cộng sản Hà Nội, nỗ lực sẽ thành công
chỉ mấy năm đầu 1954-1959, khiến cho
miền Bắc tức tối sẽ thành lập Mặt
trận giải phóng miền Nam và gây chiến cho
đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Không khí tự do nói trên sẽ khiến
một số nhà văn nghệ phải xét lại những
nền tảng văn nghệ theo đuổi như
thuyết đệ tứ quốc tế, thuyết giải
phóng dân tộc, thuyết quốc dân và chống ngoại
xâm, thực dân mới cũ. Dĩ nhiên có nhiều
người sẽ tiếp tục "công tác" như
trước 1954, sẽ vào tù hoặc vô bưng, tập
kết, hay sẽ bị bắn chết khi vượt
ngục như Dương Tử Giang. Những nhà
đệ tứ Thiên Giang, Thê Húc sẽ đi vào con
đường thuần giáo dục, Tam Ích sẽ pha
Phật giáo nhưng vẫn bế tắc đến
phải tự kết liễu cuộc đời, Hồ Hữu
Tường xét lại thuyết của ḿnh sau khi bị tù
v́ làm quân sư cho tướng Bảy Viễn nhưng
sẽ vẫn không thuyết phục được
nhiều người, Phú Đức Nguyễn Đức
Nhuận, Tô Nguyệt Đ́nh Nguyễn Bảo Hóa, Quốc
Ấn, Phi Vân, ... sẽ hoạt động báo chí, Thẩm
Thệ Hà sẽ chuyên hơn về giáo khoa, Sơn Khanh, ..
sẽ bỏ viết, làm luật sư và thủ
tướng, vv. Vũ Anh Khanh sẽ tập kết và
vượt tuyến trở lại và sẽ bị bắn
chết nơi đất nước bị qua phân. Lư
Văn Sâm sẽ vô bưng khi đă lộ, riêng Thái Bạch,
Sơn Nam, Trang Thế Hy, ... sẽ tiếp tục
"nằm vùng" vững vàng trong một miền Nam quá
tin người và "quá" đề cao những giá
trị dân chủ, tự do!
Trong
bầu không khí đó, các nhà văn thuần lục tỉnh
và Sài G̣n sẽ làm ǵ ? Trước hết, họ tụ
tập hoạt động báo chí và xuất bản. Các nhà
xuất bản Phạm Văn Tươi, Phù Sa, Bến
Nghé, Nam Cường,..., các nhật báo Tiếng Chuông, Sài G̣n
Mới, Sài G̣n Mai, Tia Sáng, ... và các tạp chí Nhân Loại,
Đời Mới, Mới, Sinh Lực, Đông
Phương, ... sẽ là đất văn nghệ chính
của các nhà văn miền Nam này trước khi họ
sẽ hội nhập vào ḍng văn học "miền Nam
cộng ḥa" với các tạp chí Phổ Thông, Văn
Học, Văn, Bách Khoa, Nghệ Thuật, vv. Tạp chí Nhân
Loại ra đời năm 1956 (có thời do Đông Hồ
làm giám đốc) chuyên về văn nghệ và ít về
nghị luận chính trị. Đời Mới của nhóm
Trần Văn Ân, sẽ đóng cửa khi ông Ân bị
bắt ở Rừng Sát, là tạp chí có nhiều ảnh
hưởng về chính trị cũng như văn học
nghệ thuật trong khi tờ Đông Phương của
Hồ Hữu Tường chỉ chuyên về chính trị,
cổ vơ thuyết trung lập. Về sau có thêm báo chí
Phật giáo như Giữ Thơm Quê Mẹ, Hải
Triều Âm, Vạn Hạnh. Giai đoạn sau tiêu biểu
có tờ Hoà Đồng do Hồ Hữu Tường
chủ trương tổng hợp văn minh mới và
Cấp Tiến của nhóm Nguyễn Văn Bông với
chủ trương như một thay thế những
thế lực chính trị cổ truyền đă
"mỏi mệt"!
Các
nhà văn
Một cách tổng quát, tạm có thể
phân biệt một số khuynh hướng chính :
- phong tục và đời sống nơi
vùng đất mới khai hoang và phù sa: B́nh Nguyên Lộc,
Sơn Nam, Lê Xuyên, Vương Hồng Sển,
Mộng-Tuyết thất tiểu-muội, ...
- xă hội và đời sống thị
tứ : Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Hoài Điệp
Tử, ...
- chính trị, đấu tranh : Phạm
Thái, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy, ...
- t́nh cảm, lăng mạn, diễm t́nh b́nh
dân : Ngọc Linh, Sĩ Trung, Dương Hà, Phú Đức,
bà Tùng Long, Phi Long, Dương Trữ La, Thanh Thủy,
Trọng Nguyên...
- luận đề, triết lư và tôn giáo :
Hồ Hữu Tường, Phạm Công Thiện, Tô Thùy Yên,
...
* Phạm
Thái, tên thật Lê Phùng
Thời, thuộc nhóm Tự Quyết, tác giả tập
Truyện Năm Người Thanh Niên (1954) và truyện dài
Nhà Lá đăng dở dang trên báo Tự Quyết bị
đ́nh bản năm 1955. Truyện Năm Người Thanh
Niên một tiểu thuyết
luận đề tŕnh bày dưới h́nh thức trên ba
mươi lá thư và trích hồi kư, là chuyện của
Hữu, Lưu, Phương, Ngọc, Trang, năm thanh niên
thanh nữ sống buổi giao thời mà cách mạng
như là giấc mơ. Thanh niên đầy nhiệt
huyết sẽ làm ǵ? Làm nhiều tiền, hay đi tu, hay
làm cách mạng? Chính Thu người yêu của Phương
sau là vợ Hữu tuy chỉ là nhân vật được
nói đến nhưng lại đóng vai chính giúp
người đọc hiểu các nhân vật chính.
Đoạn thư Trang gửi Phương :
"Th́
ra chỉ có sự hy sinh của thằng chiến sĩ
như mầy mới hoàn toàn cao quí v́ nó không hề tơ
vương, ích kỷ, không bao giờ hóa thành khô khan và vô
bổ được. Người ta có thể thành
nghệ sĩ v́ bản tính thiên nhiên, v́ t́nh yêu, v́ tự ái,
v́ bị đời khinh bạc. Người ta
thường đi tu v́ bị một mối thất
vọng lớn, v́ không đủ nghị lực gánh chịu
phần đau khổ của kiếp người. Nghệ
sĩ như kẻ tu hành đă chọn con đường
nghệ thuật vào đạo lư để t́m chốn dung
thân. Riêng người chiến sĩ lấy dân tộc làm
lẽ sống, lấy cách mạng làm nguồn vui, chiến
sĩ đă can đảm nh́n vào sự thật nhận
lấy thử thách, t́nh nguyện hiến thân ḿnh làm
chất vun bón đóa hoa Sinh Tồn cho ṇi giống. Lặn
lội nơi rừng sâu, núi thẳm,. tàn phế ... ṃn mỏi...
phơi xương nơi hoang đảo, chiến sĩ có
bao giờ đ̣i hỏi chút ǵ bù lại đâu, họ
chỉ thấy cần phải làm bổn phận...".
Một đoạn trích khác về Sài G̣n
đầu thập niên 1950:
"Trời đất ơi! Bỏ xe
ngoài đường đi thăm ḷng ṿng xóm lao động
Bàn Cờ một hồi lâu mới đến cái ổ
chuột của tụi nó. Trang ṃ măi trong bóng tối mới
mở được cánh cửa đánh diêm đốt
đèn cho thằng Chương mở tủ lấy xấp
tranh ra cho tao xem. Đèn dầu lửa tù mù, nhà thấp xùm
xụp, bít bưng, nóng tháo mồ hôi. Tao xem chẳng
thấy hay đẹp ǵ ráo trọi nhưng cũng khen
bừa rồi bỏ hai trăm bạc mua bức tranh,
vẽ cô thiếu nữ mơ màng trước rèm
trúc..." (Thư Hữu gửi Ngọc).
Vào thời sùng sục kháng chiến và
đấu tranh của đầu thập niên 1950,
truyện TNNTN của Phạm Thái đă là một biến
cố quan trọng, một văn nghệ mới và đi
lên, một văn nghệ cho tiến bộ và cải cách xă
hội, tiếp nối con đường của Quốc
Ấn, Sơn Khanh, Vũ Anh Khanh, ...
Nhưng ba nhà văn trội bật
của ḍng văn chương lục tỉnh thời này là
B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam và Hồ Hữu Tường.
Sơn Nam và B́nh Nguyên Lộc về sau lại có khuynh
hướng viết biên khảo và hai ông đều đă
có những đóng góp đáng kể: Sơn Nam viết
Văn Minh Miệt Vườn, Bến Nghé Xưa, Cá Tính
Của Miền Nam, ...; B́nh Nguyên Lộc c̣n là tác giả
Nguồn Gốc Mă Lai Của Dân Tộc Việt Nam và
Lột Trần Việt Ngữ.
* B́nh
Nguyên Lộc (xin xem bài
viết B́nh Nguyên Lộc và T́nh đất).
Cá tính miền Nam lục tỉnh đă rơ
rệt trong nhiều tác phẩm của B́nh Nguyên Lộc, qua
ngôn ngữ, nhân vật và một t́nh yêu đất
đậm đà của tác giả. Rơ rệt, v́ B́nh Nguyên
Lộc ư thức sứ mạng văn chương của
ḿnh. Cá tính này, ngoài B́nh Nguyên Lộc, c̣n lộ rơ hơn
nữa với nhà văn Sơn Nam.
* Sơn
Nam nổi tiếng về
những truyện ngắn về miền Nam thời khai
phá, ở lưu vực sông Cửu Long mà ông coi là vùng
đất linh thiêng, ḷng người ngay thẳng nhưng
cương trực, dứt khoát và trọng chữ tín. Có
thể nói toàn bộ tác phẩm ông như một thiên anh
hùng ca về những con người đă khai phá vùng
đất mới, đầy hào hùng và có khi có tính cách
huyền thoại. Văn ông hồn nhiên như kể
chuyện. Ông từng được giải văn
chương Cửu Long của kháng chiến với Bên
Rừng Cù Lao Dung. Cộng tác với nhiều tạp chí và
nhật báo, ông cùng Ngọc Linh lập nhà xuất bản Phù
Sa. Sau 1975, mọi người biết ông đă "nằm
vùng" cho Việt cộng. Tác phẩm của ông :
Hương Rừng Cà Mau (1962), Chim Quyên Xuống Đất
(1963), H́nh Bóng Cũ (1964), Hai Cơi U Minh (1965), Vọc
Nước Giỡn Trăng, Vạch Một Chân Trời
(1968), Bà Chúa Ḥn (1969), v.v.
Hương Rừng Cà Mau là một thiên anh
hùng ca gồm 18 truyện đề cao những kẻ
"tiên phuông" khai phá miền đất mới, xa
lạ, nhiều cạm bẫy nhưng cũng đầy
thử thách cho những người chân phải cứng.
Đề cao t́nh quê hương, t́nh yêu đất, ghi
lại những h́nh ảnh xinh đẹp trước khi
biến mất với thời gian.
Chuyện người dân ở ḥn Cổ
Tron, ở rừng U Minh Hạ, vùng Xẻ Bần, rạch
B́nh Thủy, chuyện Phật thầy Tây An núi Sam,
chuyện miễu bà Chúa Xứ, v.v. Hương rừng
như một khám phá thích thú nơi vùng đất hăy c̣n
hoang sơ: "... Con rạch quá nhỏ, uốn ngoằn
ngoèo như ruột ngựa nối liền qua những lung,
bào, tṛn tṛn méo méo như h́nh mấy cái bao tử, gan, lá
lách... Sậy mọc khỏi đầu. Hương
rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng
rất quen thuộc. Thằng Kim hít mạnh để
hửi cho kỹ, để nhớ cho rơ nhưng nhớ măi
không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt.
Rừng cơ hồ không c̣n chiếc lá nào cả! Trên hàng
vạn nhánh to nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm
tấm hằng hà sa số đợt bông g̣n, không phải
riêng trước mặt mà khắp các tứ phía. Rừng
sáng lạn, ai dám nói là rừng âm u? Bông kết oằn sai,
mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không
thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt. Nó buột
miệng :
- Rừng cây ǵ vậy? Chú Tư.
Tư Lập day lại, cười vang :
- Thằng quỉ! Hửi mà không biết
mùi mật ong sao? tràm chớ giống ǵ! Muôn ngàn hủ
mật ong của trời ban xuống cho trần gian c̣n treo
lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng
đó. Hửi vô th́ say. Say th́ không tỉnh được. Có
người toan dùng nó mà luyện thuốc trường
sinh, từ trăm năm nay..." (Hương Rừng)
Nơi vùng đất mới đó,
đời sống sẽ khó khăn như khi nước
sông Hậu dâng. Thằng Nhi trong Mùa "Len" Trâu phải
dẫn trâu tới núi Ba Thê để tránh mùa nước
lên. Khi "nước giựt xuống", thằng con
về nhưng ăn nói đă học đ̣i dân anh chị:
"Đ.m. chết hết một con. Đem cặp
sừng bộ da của nó về nè! Nặng gần
chết. Đ.m, không lẽ bỏ luôn". Nó c̣n biết
thêm hút thuốc rê, nhâm nhi rượu đế và tay cùng
bụng xâm đầy những chữ "ngũ hồ
tứ giải giai huynh đệ", "ái t́nh vạn
tuế". Tâm tính con người thay đổi v́
cuộc sống khó khăn!
Nhưng cũng có những cảnh trai gái
t́nh tứ : "Con Lài nh́n ḍng nước uốn khúc qua voi,
qua vịnh như con rắn ḅ, thứ rắn có khoang màu
vàng, con rắn hổ sơn. Nó bụm mặt lại
để che cái h́nh ảnh đó. Nhưng nào
được! Ḱa chiếc xuồng của thằng
Lợi bơi lướt tới, vạch ra hai làn bọt
nước lốm đốm trắng như con bạch
hoa xà... Lập tức nó xuống bến, bơi theo, măi
đến khi xuồng thằng Lợi ghé bên bờ đ́a,
kế gốc cây b́nh bát. Thằng Lợi day lại cười:
- Đi đâu vậy cô Hai ... rắn bông
súng?
Con Lài sực nh́n chiếc áo có bông đang
mặc. Nó e thẹn, liếc thằng Lợi:
- Em giống như con rắn bông súng. C̣n
anh, áo đen mốc như con rắn hổ đất.
Cười em làm chi.
- Rắn đâu dám cười rắn. - Nó
vừa nói vừa nắm tay con Lài. Con Lài rút tay ra cho có
lệ. Nó bước qua xuồng, ngă vào ḷng thằng
Lợi.
- Anh à!
- Cái ǵ đó, hở rắn!
- Thiên hạ thấy, họ cười
chết.
- Ai thấy mà cười? chung quanh đây
cái ǵ cũng là rắn như hai đứa ḿnh. Thí dụ
như mấy sợi dây choại, dây ḅng bong kia...
Con Lài gật đầu :
- Phải, dây choại, dây ḅng bong giống
như rắn lục, nó xanh tươi. C̣n đám cỏ
bồn bồn đằng kia, nó dẹp lép quả thật
là rắn lá ... Nhánh củi khô, kế đó, anh thấy không
anh Lợi?..." (Cây Huê Xà).
Về
phần các tập tiểu thuyết, Vạch Một Chân
Trời viết về lịch sử vùng đất Cái Tàu
với những chuyến săn vàng đẫm máu, Bà Chúa
Ḥn kể chuyện âu mưu soán đoạt ngôi vị chúa
tể ở một vùng đất mới. Nhưng Chim Quyên
Xuống Đất là một thất bại về xây
dựng tiểu thuyết và đề tài cũng ... lộ
tẩy v́ ông muốn đề cao giới thanh niên và trí
thức miền Nam thời kháng Pháp - kín đáo khiêu gợi
những giới đó thời ông vốn chợt có
những băn khoăn ở vào cuối chế độ
đệ nhất cộng hoà! Nói chung, văn chương
Sơn Nam nặng nề Nam-tính, cần thiết cho các nhân
vật sống vào thời khai phá miền Tây, những
"anh hùng hảo hán lục lâm giang hồ", những
tay "tứ chiến" xâm đầy ḿnh, thời
chống Pháp, ... Trong khung cảnh đấu tranh đó,
vẫn có những đoạn văn cảm hoài nhẹ
nhàng : "Ngồi đây mà nhớ đến cái thời
xuân xanh năm nào! Nó như chiếc lá già rụng, mục
nát trở về ḷng đất để làm phân cho
những cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa. Nó như
một chiếc xuồng cũ kéo lên trên đất khô, phơi
dưới ánh nắng gay gắt. C̣n đâu hơi gió
cũ? C̣n đâu ánh trăng xưa? C̣n đâu hơi thở,
c̣n đâu dáng người? C̣n đâu bên sông "nhánh bần
gie con đóm đậu"? (HRCM).
* Hồ
Hữu Tường
thời vẫy vùng với nhóm đệ tứ quốc
tế, sau đ́nh chiến, ông ra báo Phương Đông
(1954) cổ vơ cho thuyết trung lập và làm cố vấn
cho nhóm Bảy Viễn nhưng ông bị quân đội
dẹp loạn bắt tại Rừng Sát và bị tù ở
Côn Đảo đến sau đảo chánh 1-11-1963. Ra tù,
ông lại ra báo, tờ Ḥa Đồng, mở nhà xuất
bản Huệ Minh chủ yếu in sách của ông và viết
rất nhiều bộ tiểu thuyết, lúc th́ kể
chuyện thời thơ ấu, lúc dựng lại không khí
đấu tranh ở trong Nam phần trước và sau
thời kháng chiến chống Pháp, lúc th́ lập thuyết
để cứu rỗi nhân loại và thường
cứu rỗi nước nhà. Ông đưa ra thuyết
tổng hợp mới, hợp ba nền văn minh mà ông
gọi là kỹ sư (khoa học), chánh ủy (chính
trị) và tu sĩ (triết lư, tôn giáo). Sau cùng ông lại
đề nghị bỏ thuyết trung lập chế và
đưa ra giải pháp "siêu lập", Việt Nam
thành lănh thổ Liên Hiệp quốc!
Ông để dấu văn nghệ qua
Chuyện Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp (1953, in trong
Nợ Tinh Thần, 1965) và cuốn Thằng Thuộc Con Nhà
Nông (1966). Truyện Chuyện Con Thằn Lằn Chọn
Nghiệp được nhiều độc giả và nhà
văn chọn là một trong những truyện ngắn hay
nhất trong cuộc phỏng vấn của Nguiễn Ngu Í
trên tạp chí Bách Khoa đầu thập niên 1960. C̣n
Thằng Thuộc Con Nhà Nông là cuốn đầu
được xuất bản của bộ Một Kinh
Nghiệm Sống, truyện tự thuật kể kinh
nghiệm sống và thời thơ ấu của tác giả
ở làng Thường Thạnh (Cái Răng, Cần Thơ)
dưới thời Pháp thuộc. Các bộ truyện Phi
Lạc, Hồn Bướm Mơ Hoa và Thuốc
Trường Sanh, v.v. sẽ đưa người
đọc vô những mê hồn trận lư thuyết và
nhiều khi thần bí hơn là những cuộc đời
thú vị và b́nh dị của con người miền Nam!
Đó cũng là khuyết điểm chung trong toàn bộ tác
phẩm của nhà "lập thuyết" họ Hồ
tự cho là ḍng dơi Quang Trung Nguyễn Huệ!
Ngoài ra Lê Xuyên, An Khê, Ngọc Linh,
Dương Hà, Phi Long, bà Tùng Long, ... cũng sáng tác mạnh
dù các nhà văn này ít làm văn chương hơn là viết
tiểu thuyết "feuilleton" đăng nhiều
kỳ ở các nhật báo.
* Lê
Xuyên viết nhiều về
đời sống phong phú của người đồng
quê miền Nam: những mối t́nh thắm thiết,
những gay cấn ly kỳ của cuộc đời,
những kinh rạch chằng chịch, những ẩm
ướt của thời tiết và dục vọng con
người,.... Viết về đồng quê những vùng
Rạch Giá, Hà Tiên, Cần Thơ, ... nhưng ông nổi
tiếng v́ các nhân vật trong Chú Tư Cầu, Vợ
Thầy Hương, Rặng Trâm Bầu sống bồng
bột tự nhiên đến độ buông thả theo
bản năng. Dù sao cũng phải nh́n nhận ông đă có
công ghi lại văn nói đặc biệt của
người nhà quê, nhất là ở thành phần thanh niên
thiếu nữ. Nói như Mai Thảo, Lê Xuyên "có thôn quê
trong tâm hồn" (Lời tựa Chú Tư Cầu). Văn
đối thoại tự nhiên, trong sáng, có ư vị duyên dáng
đặc "lục tỉnh". Xuyên qua các tiểu
thuyết của Lê Xuyên, người tinh ư sẽ nhận ra
ông c̣n muốn vẽ lại chân dung người dân quê
sống thời Pháp thuộc và Nhật thuộc, lúc nào
họ cũng chân chất, đôn hậu ngay cả khi
tức giận cũng như khi tỏ ḷng yêu nước,
họ cũng chừng mực, chậm chạp - khiến
dễ bị hiểu lầm họ cam chịu dễ dàng!
Hoặc một vài "anh hùng" kháng chiến, họ
chống Pháp cho "sướng" hơn là cho
"được"! Kinh Cầu Muống, Nguyệt
Đồng Xoài, Người Chờ Góa, ... viết sau, có liên
hệ nhiều hơn đến cuộc chiến lúc
bấy giờ, những con người bất đắc
dĩ phải tham gia cuộc chiến! Lê Xuyên có một
số truyện ngắn đăng trên các tạp chí
Khởi Hành, Nghệ Thuật, như Cuối Giờ Hưu
Chiến, ... có giá trị nghệ thuật.
* Ngọc
Linh: dịch giả và tác giả
trên 60 xuất bản phẩm trong đó 20 kư Ngọc Linh.
Ông bắt đầu viết bằng truyện ngắn
từ năm 1957 (Chị Hà) và có nhiều tiểu thuyết
được quay thành phim và cải thành tuồng cải
lương: Trên Sông Hoàng Hôn, Ngă Rẽ Tâm T́nh, ... nhưng
với Đôi Mắt Người Xưa, ông đă cố
gắng "làm văn chương" dù bị hệ
lụy "feuilleton" đăng báo. Tiểu thuyết
của Ngọc Linh có hai đặc điểm: đề
cao tâm hồn phụ nữ Việt Nam, sự hy sinh và
chịu đựng của họ, và thứ nữa,
chuyện thường gây cấn, bi đát nhưng kết
cục luôn có hậu, dù là chuyện thời chiến có
những bất ngờ. Tiểu thuyết ông khai thác
những khúc mắc t́nh cảm: hai vợ, hai chồng, hai
chị em cùng yêu một người, anh rễ và em gái
vợ, những ngộ nhận và hy sinh. Kết có hậu
theo luân lư b́nh dân miền lục tỉnh, mà lạc quan, v́
"thiện ác đáo đầu chung hữu báo",
những nhân vật biết phục thiện: "Xin cha
cứ yên ḷng, con sẽ không bao giờ sa chân như
trước nữa đâu. Con sẽ ra sức làm việc
và sẽ vươn lên trong cuộc đời, như bao
nhiêu người khác" (ĐMNX). Tiểu thuyết
của ông dù vậy đă có công cho thấy những tâm
hồn trữ t́nh hồn nhiên của con người
lục tỉnh : "Ḍng sông này buồn quá phải không cô?
Nhất là trong những buổi hoàng hôn như chiều nay
(...) tôi lại nghĩ đến những ngày vui rồi
hết, những cuộc gặp gỡ rồi ly tan,
những người yêu nhau rồi chia cách..." (TSHH).
* Bà
Tùng Long, tác giả nhiều
tiểu thuyết "feuilleton" đăng nhiều
kỳ ở các nhật báo như Sài G̣n Mới sau một
số in thành sách như Lầu Tỉnh Mộng, Chúa Tiền
Chúa Bạc, Hoa Tỉ Muội, T́nh Và Tiền, Những
Kẻ Có Ḷng,... Truyện của bà không nặng về phân
tích tâm lư và không t́nh tiết phức tạp. Ngược
lại truyện của bà có tính cách luân lư và t́nh tiết
hợp tâm lư thông thường của đại chúng.
Đối với những người chia chiếu văn
nghệ th́ bà không được coi là nhà văn, càng khó là
nhà văn lớn. Tuy nhiên nếu muốn nghiên cứu tâm
t́nh, nếp sống con người miền Nam những
thập niên 1940, 1950 và cả 1960, không thể bỏ qua các
truyện của bà. Hơn nữa bà vẫn được
nhắc nhở đến như tiêu biểu cho một
khuynh hướng văn nghệ ở miền Nam, khuynh
hướng viết như nói, viết như nghĩ, không
uốn cong nếp suy nghĩ và cả lời nói của nhân
vật như các nhà văn khác nhận ảnh hưởng
ngoại quốc. Chính nhà văn Duyên Anh đă nhiều
lần đề cao bà như tiêu biểu cho khuynh
hướng này. Tuy nhiên các truyện của bà thường
dùng lại truyện của Pháp; cái đóng góp nếu có
của bà chỉ ở những đối thoại, văn
nói.
Nếu Sơn Nam, Lê Xuyên, An Khê, Ngọc
Linh và Hồ Hữu Tường đưa vào văn
chương tiếng nói và đời sống của
người miền Tây và B́nh Nguyên Lộc miền Đông,
th́ Nguyễn Thị Thuỵ Vũ thuộc thế hệ
mới đă bị đô thị hóa, sẽ đưa vào
văn chương lời ăn tiếng nói của
người Sài G̣n - ngoại lệ Khung Rêu bà viết
về một miền Đông trước thời Kháng chiến.
Miền Nam trong văn chương Nguyễn Thị
Thuỵ Vũ là một Sài G̣n thị tứ với
những cuộc sống tân thời và những vấn
đề của thời mới, chuyện các cô gái lỡ
thời, gái bán bar, me Mỹ và làm sở Mỹ (Mèo Đêm,
Thú Hoang, Lao Vào Lửa, Chiều Mênh Mông,...). Sau 1972, bà đă
đưa đời sống "miệt vườn"
vào tiểu thuyết, trong Nhang Tàn Thắp Khuya, Khung Rêu, phần
lớn nói về giới giàu có, điền chủ ở nhà
quê!
Các
nhà thơ
Trên tuần báo Đời Mới năm
1953, Đại Mạch, người giữ mục Tin
Thơ, đă tiếp ư nhà văn vắn số Triều
Sơn của Con Đường Văn Nghệ (1949)
cổ động cho một loại thơ gọi là
tự do. Tuy nhiên thơ tự do chỉ thật sự có
h́nh dạng v́ được nhiều nhà thơ dùng
để sáng tác khi tạp chí Sáng Tạo ra đời tháng
10-1956. Sáng Tạo sẽ là diễn đàn của những
người văn nghệ từ đất văn vật
vào, nhưng cũng sẽ là đất nảy mầm
của những văn nghệ sĩ miền Nam như Tô
Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt,...
* Tô
Thùy Yên sẽ là một ngoại
lệ mỗi khi xếp khuynh hướng. Ông sinh
trưởng ở Gia Định nhưng là nhà thơ
tự do đặc sắc của nhóm Sáng Tạo. Dù
chỉ xuất bản tập thơ đầu tay năm
1996, nhưng trước 1975, ông đă có một chỗ
đứng đặc biệt. Ông từng đăng
thơ trên nhật báo Tiếng Chuông và tạp chí Đời
Mới, Người Việt nhưng từ khi ông
đăng thơ trên các tạp chí Sáng Tạo, Nghệ
Thuật, ... thơ ông đă cung cấp cho nền văn
nghệ mới những khai phá mới của một
lục tỉnh hội nhập ḍng nước chung.
Tương lai cũng sẽ trả lời rằng
những lai láng, kể lể, pha loảng sau này ở
hải ngoại sẽ không thể so sánh với những
thu gọn, kín đáo, thâm trầm sáng giá của thơ ông
trước 1975. Tinh tế của chữ dùng, của tâm
hồn gói ghém trong lời, những h́nh ảnh xử
dụng và nhạc điệu đă là của riêng ông.
Khắc khoải của phận người và bi đát
của cuộc sống là ư chính mà ông muốn giăi tỏ qua
thơ sau khi đă vận dụng lư trí. Dù ǵ trong thơ
họ Tô, miền Nam lục tỉnh vẫn đầy
dẫy, qua một lăng kính!
"Anh buông ghềnh ưu tư thoát theo
giấc ngủ
Con nước quánh đen cuồng bạo của
đêm khuya
Để lại phù sa lấp bằng dăm khoảng
trống
Nơi niềm vui như tràm xú mọc vươn lên...
... Anh uống cà phê trong tiệm Tàu cuối chợ
Hồi tưởng những chiều động băo
ở Kiên Giang
Trời biển mịt mù ḿnh anh trên mỏm đá
Cái chết kinh hoàng quyến rũ bủa lên chân
Và những khuya thứ năm rạng ngày thứ sáu
Trên chuyến xe đầu đi Cần Đước
thăm em
Đồng ruộng trắng dần cặp đèn pha
nhắm lại
Đeo
cầu sắt sông tay người bệnh bẩn
rung..."(Buổi Sáng)
* Kiên
Giang Hà Huy Hà (Xem bài viết
riêng về nhà thơ)
* Sa
Giang Trần Tuấn Kiệt đă có những nỗ lực làm mới
thơ lục bát:
"B́nh thường mộng đó hồ
vơi
Lá thưa cây ngủ chiều phơi bóng vàng
Giật ḿnh gió băo tây phương
Đầm đ́a mạch đất máu xương
trổ hồng
Quả tṛn trái rụng vườn không
Người đi qua ngơ tay bồng tay mang
(...) Tiếng sầu gởi với tây phương
Với sa mạc thổi nghe buồn thiên nhiên"(Chung
Cuộc)
Ngoài khía cạnh sáng tạo, thơ ông c̣n là những h́nh
ảnh phần đất quê hương của ông:
"Con chim cu ngói
Về hót một lần
Bên bờ Cửu Long
Một người thôn nữ
Gieo mạ bên đồng
Bên bờ Cửu Long
Những làn sóng biếc
Thao thiết muôn trùng
Bên bờ Cửu Long"(Bờ Cửu Long)
"Ngày Về" đất Sa Giang của nhà thơ:
"Ḷng ta v́ quá đổi nhớ thương
Cành hoa bụp cũ khóc bên đường
Bến khuya Sađéc trăng mười sáu
Mấy độ ch́m theo sóng lớp lang
Hỡi người con gái bến Tân qui
Nàng hát ta nghe tiếng hát ǵ
Tóc xơa bốn trời trăng gió tụ
Mây vờn âm điệu nét phương phi
Hát nữa nàng ôi năo bốn trời
Cành hoa bụp cũ bến kia rơi
Quê hương khúc hát chừng đưa lại
Lớp sóng trường giang lạnh đến
trời".
* Kiệt
Tấn với tập
Điệp Khúc T́nh Yêu Và Trái Phá viết về cuộc
đời và chiến tranh trong khi hiện tượng
Phạm Công Thiện với Ngày Sinh Của Rắn lớn
lời : "Tôi giao cấu với Mặt Trời sinh ra
mặt trăng / Tôi thủ dâm
với Thượng dế sinh ra mặt trời" (tr. 6)
th́ đă vượt biên giới địa lư để vào
với siêu nhiên. Nhưng Mỹ Tho của ông hay một
nơi nào đó vẫn vướng trong thơ : "Mưa
chiều thứ bảy tôi về muộn / Cây khế
đồi cao trổ hết bông" (tr. 2).
* Thanh
Việt Thanh với Mây
Xa, Rừng Bản Trăng Sao và nhất là Khói Quê
Hương (1965) : quê hương chiến tranh trở
thành xa xôi nhiều kỷ niệm :
"... Đêm sao rạng, tiếng chày khua
tiếp nối,
Rộn câu ḥ làm nghẽn lối thời gian.
Vổ tay reo đàn trẻ tắm trăng vàng,
Đầu râu bạc cụ già lê bước
dạo..."
(Đâu
Mộng Quê Hương)
Những nhà thơ khác như Đông
Hồ sáng tạo cạn nguồn, chỉ ra tập Trinh
Trắng (1961), c̣n lại là những tùy bút và biên khảo
về văn học miền Nam. Tuy người Hà Tiên
nhưng Đông Hồ làm thơ viết văn theo tiêu
chuẩn nặng Hán văn màu mè và du dương của
tạp chí Nam Phong. Bài Mua áo vẫn hay được
nhắc đến, t́nh tứ vợ chồng nhẹ nhàng,
tế nhị mà cũng có thể là Nàng Thơ biết
đâu tác giả muốn bộ lộ tâm sự của
một nhà thơ cũ phải theo Thơ Mới nên đă
phải giả tạo t́nh ư? Người bạn
đường của nhà thơ, Mộng Tuyết Thất
Tiểu Muội, làm thơ và viết tùy bút ít nhiều
để lộ đặc điểm miền Nam .
Nam-tính
Chúng
tôi có ư đi t́m "Nam-tính" trong "Việt-tính" qua
một số văn thơ giai đoạn 1954-1975, nhưng
chưa đủ điều kiện và thời gian, thành ra
bài viết chỉ mới là những ghi nhận tổng
quát về thế nào là nhà văn điển h́nh miền Nam
lục tỉnh. C̣n cá tính văn chương miền Nam
thiết nghĩ nằm ở ngôn từ địa
phương, ở t́nh yêu đất đai tiềm ẩn
hay công khai trong tác phẩm. Và một thứ đạo
đức phổ quát, nền tảng về đạo làm
người và làm con dân đất nước, rồi
một tâm t́nh đôn hậu, cởi mở như là
xương sống cho Nam-tính đó! Nếu nông thôn miền
Nam đang biến mất trong văn chương Việt
Nam - từ những năm 1968, Vơ Phiến đă từng xem
nông dân là cố nhân (4), người dân quê cũng đô
thị hoá nhanh chóng, khiến những chuyện Sơn Nam,
B́nh Nguyên Lộc, Lê Xuyên, ...
viết về thời thập niên 1940, 1950 đă
như viết về những người xa xưa
lắm. "Nam-tính" có thể t́m thấy trong nếp
sống dân giả, quê mùa, nhưng cũng đầy
dẫy trong văn nói của con người miền này
cũng như trong những tiềm ẩn hay căn bản
văn hóa của họ. Một câu hỏi dễ trả
lời: văn viết hay văn chương đại
chúng chứa đựng nhiều "Nam tính"? Bài này
viết trong viễn tượng đi t́m đa dạng và
đặc dạng của văn chương Việt Nam,
xác định độc đáo trong tổng thể
phức tạp. Một nh́n lại ḿnh trước thềm
thế kỷ XXI.
Chú-thích :
1.
Mai
Thảo. "Sài g̣n, thủ đô văn hóa". Sáng
Tạo, 1, 10-1956, tr. 1-5.
2.
Cao Huy
Khanh. "20 năm tiểu thuyết miền Nam từ chia
cắt đến ngưng bắn". Thời Tập,
14-12-1973, tr. 21-34.
3.
Vơ
Phiến. Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam
1954-1975. Westminster, CA: Văn Nghệ. 1986 ("Vai tṛ
của miền Nam", tr. 128-135).
4.
Vơ
Phiến. "Nông dân, một cố nhân". Tạp
Luận (Westminster CA : Văn Nghệ, 1987), tr. 225-230.
5-1998