TIẾNG VIỆT QUA MỘT SỐ
TÁC-PHẨM
Nguyễn Vy-Khanh
Trên các sách báo xuất bản ở những
năm gần đây, người đọc đă có
dịp biết đến một số những khám phá và
giả thuyết mới về văn học Việt Nam qua
các đóng góp của hai học giả vừa quá cố :
Hoàng Xuân Hăn và Tạ Trọng Hiệp. Nhiều học
giả khác cũng có những công tŕnh đóng góp đáng
kể. Các phát hiện, khám phá về Nguyễn Trăi (thơ
Nôm, Gia Huấn Ca), Nguyễn Du, Dương Khuê, Lê Quư
Đôn, Hồ Xuân Hương (thơ chữ Hán Lưu
Hướng Kư), v.v. sẽ buộc người viết
văn học sử tu chính lại những ǵ đă
được viết. Theo ư chúng tôi, có những phát
hiện khác về văn học miền Nam chưa
được phổ biến rộng răi một cách chính
thức sẽ thay đổi hơn nữa nội dung
của một bộ văn học sử Việt Nam
đúng nghĩa. Trong bài Miền Nam Khai Phóng, chúng tôi đă
đề cập đến những công bố mới
về Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng
Quản, cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết
bằng chữ quốc ngữ cũng như một số
khai phá tiên phong về văn học và báo chí mở
đường cho nền văn học bằng chữ
quốc ngữ như ngày nay. Sau đó chúng tôi được
biết thêm công tŕnh nghiên cứu Lục Châu Học (dựa
vào Văn, Sử bằng chữ quốc ngữ xuất
bản ở miền Nam Việt Nam 1860-1930, t́m hiểu con
người vùng đất mới) của giáo sư
Nguyễn Văn Trung cũng như một số công tŕnh
khác của khoa Ngữ văn thuộc đại học
tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh sau khi có chính sách
Đổi mới ở trong nước, như tập
Về Sách Báo Của Tác Giả Công Giáo (Thế kỷ
XVII-XIX). Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu cuốn
Sấm Truyền Ca, cuốn sử Đại Nam Việt
Quấc Triều Sử Kư và Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch
cũng như một vài khám phá khác về những đóng
góp văn học và văn hóa của miền Nam; từ
đó chúng tôi sẽ nêu một số ư kiến về
sự phát triển của tiếng Việt.
1.
Sấm Truyền Ca (1670) :
Đạo
Thiên Chúa du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ XVI,
đến thế kỷ XVIII đă chỉ có một
thời được ít nhiều thuận lợi nhất
là ở miền Nam, dù liên tục bị các vua chúa cấm,
đă "giúp" Nguyễn Ánh thống nhất hai miền
Đàng Trong Đàng Ngoài, thật sự thống nhất sau
cái thống nhất ngắn ngủi của vua Quang Trung.
Về văn hóa xă hội, nói chung, đạo Thiên Chúa
đă góp phần giải phóng cá nhân. Trong hoàn cảnh
tiếp xúc mới xuất hiện những truyện Nôm
đáp ứng nhu cầu mới của những tiếp xúc
với người Tây phương và của cả
chiến tranh. Theo bà Quách Thanh Tâm, hai truyện Phan Trần và
Thạch Sanh đă ra đời trong hoàn cảnh đó (1).
Bên cạnh những tác phẩm của giới trí thức,
có khi khuyết danh cố ư, đă có những tác phẩm tôn
giáo có giá trị văn học viết bằng chữ Nôm
như Sấm Truyền Ca (1670) của Lữ Y Đoan,
như Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông (cùng thế kỷ XVII)
của Majorica, hoặc viết bằng chữ quốc
ngữ như Tuồng Joseph (1888) của Trương Minh
Kư, Phi Năng Thi tập của Philippe Phan Văn Minh, linh
mục được phong thánh năm 1989 và là tác giả
cộng sự viên soạn Tự điển Tabert (1838),
khuyết danh có tập Văn Và Tuồng (1899, in lần 3). Hay
như tập Đại Nam Việt Quốc Triều
Sử Kư (1879) có thể nói là bộ sử đầu tiên
viết theo lối Tây phương và có đặc điểm
viết với quan điểm của người dân
thường miền Nam thay v́ viết theo chính sử,
đàu tiên về in ấn, v́ trước đó, năm 1659,
thầy giảng Bento Thiện đă là người
đầu tiên viết lịch sử Việt Nam
dưới dạng viết tay (2).
Sấm
Truyền Ca nguyên tác viết bằng chữ Nôm, tác giả
là thầy giảng (linh mục) Lữ Y (Louis) Đoan,
được viết vào năm 1670. Hiện nguyên tác
đă thất lạc, chỉ c̣n bản quốc ngữ.
Sấm Truyền Ca là một tác phẩm văn học
đặc sắc v́ phản ảnh một nỗ lực
Việt Nam hóa và b́nh dân hóa Kinh Thánh bằng cách mượn
những yếu tố văn hóa Việt Nam và Đông
phương để diễn dịch Kinh Thánh. Lưu
truyền hạn chế trong giới thu hẹp "nhà
thờ", tác phẩm chắc đă được
sửa đổi nhiều lần v́ bản hiện c̣n
dễ khiến người đọc nghĩ đến
các truyện Nôm nổi tiếng của thế kỷ XVIII
và XIX. Theo bản chép tay chúng tôi hiện có của Paulus
Tạo, người dịch bản Nôm ra quốc ngữ là
Simong Phan Văn Cận. Trong lời tựa ghi tại Cái
Mơn ngày 8 tháng chạp Tây năm 1820, ông giới thiệu
:
"Truyền
rằng sách Sấm Truyền Ca là của Thầy Cả
Lữ Y Đoan đặt ra năm 1670, viết bằng
chữ Nôm. Thầy cả này đă trở lại
đạo hồi nhỏ và đă làm thầy giảng giáp
địa phận Đàng Trong, thầy rất tinh thông chữ
nho, thuộc Tứ Thư, Ngũ Kinh. Thầy làm sách này cho
hạng văn nho đọc để biết rơ
đạo Chúa Giê-su. (...) Sách này của thầy bị
nhiều thầy cả Tây dang hồi đó không ưng v́ nó
lai sách đạo Nho và đạo Phật, nhưng bổn
đạo rất ưa và chép lại để đọc
(...)."
Trần
Hớn Xuyên (1854-1940) là người đă sưu tầm
tập Sấm Truyền Ca kể lại trường
hợp ông khám phá ra bản hiện nay vào năm 1910 :
"Trải qua cơn bắt đạo dữ dằn
đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự
Đừc, việc giữ đạo ở miền Nam
phải âm thầm, sách vở ảnh tượng đều
được chôn giấu. Đến năm 1870 có
người đào được tại Cái Nhum (Chợ
Lách, Vĩnh Long) một hầm vô chủ, có nhiều sách
vở về đạo thánh, trong đó có Sấm Truyền
Ca, giấy đă mục nhiều (...) Các linh mục Pháp
thời đó không nh́n nhận là đúng với Kinh Thánh
của bổn đạo, nên cấm bổn đạo v́
sách dị đoan. V́ đó Sấm Truyền Ca bị mai
một (...) Sấm Truyền Ca là sự dung ḥa giữa
nền văn hóa Đông phương và Tây phương. Tôi
không nhận xét về mặt hợp hay không hợp Kinh
Thánh, tôi mến phục lối thơ lục bát của
người xưa và cách dùng chữ An Nam hồi đó,
đă lột được ư nghĩa của Kinh Thánh cho
người An Nam dùng cách dễ dàng. V́ thế tôi đă xin
chép lại để làm tài liệu quư giá, dành cho con cháu ngày
sau được biết ông bà xưa cũng đóng góp
rất nhiều vào kho tàng quốc văn của dân
tộc".
Paulus
Tạo của tuần báo Nam Kỳ Địa Phận và
Nguyễn Văn Nhạn của báo Tông Đồ là hai
người đă phổ biến bản Sấm Truyền
Ca vốn gồm 5 quyển của Kinh Thánh Cựu
Ước, bản hiện có chỉ c̣n quyển 1 Genesis và
một phần của thiên Exodus.
Trước
hết, có thể nói Sấm Truyền Ca là dấu tích
văn bản Nôm xưa nhất của Việt Nam (1670) v́
các văn bản văn học Nôm khác như Thơ Nôm hay
Gia Huấn Ca của Nguyễn Trăi (hay Lư Văn Phức?!),
Thơ Văn Quốc Âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, vv cũng chỉ
là những bản chép lại vào thời Tự Đức
với chữ Nôm của thời vua Tự Đức
(1840-1883). T́nh trạng văn bản, thư tịch
Việt Nam trước thời hiện đại vừa
thô sơ vừa phức tạp. Thô sơ về cách in
ấn và v́ nguồn gốc văn bản thường không
được ghi lại; phức tạp v́ các văn
bản thất tán, sao lục sai lạc bừa bải, có
khi sự nhuận sắc tự đồng hóa với
bổ sung, hiệu đính cho hoàn hảo hơn dù chủ
quan; tên tác giả không phải lúc nào cũng được
tôn trọng, lại có truyền thống ẩn danh
đối với một số tác phẩm. Việc
kiểm soát thư tịch Việt Nam rất khó đối
với các tác phẩm chữ Hán và Nôm. Một lư do văn hóa
của vấn đề nằm ở truyền thống
kiểm soát của các chế độ lịch triều
quân chủ : vấn đề chính thống, dù có thời
chỉ là Tống Nho. Truyện Kiều của Nguyễn Du
chẳng hạn, nay không c̣n dấu vết bản Nôm
gốc đầu thế kỷ XIX, thơ Nôm của
Nguyễn Trăi chỉ được sưu tầm biên
soạn 400 năm sau (Ức Trai Di Tập của
Dương Bá Cung, 1868 đời Tự Đức); nói chi
đến thơ văn Thiền Tông (chữ Hán)
đời Lư Trần thế kỷ X và XI bản in
đầu chỉ vào năm 1715 (Thiền Uyển Tập
Anh). Trong t́nh trạng thư tịch như vậy, các nhà
nghiên cứu khi có những khám phá gọi là mới sẽ
không có lựa chọn nào khác hơn là phải cẩn
thận trong giải đoán và kết luận!
Là
một trong bốn linh mục Đàng Trong đầu tiên
được thụ phong tại Kẻ Chàm (Quăng Ngăi)
năm 1676, Lữ Y Đoan đă Việt-hóa và
Đông-phương-hóa Kinh Thánh với một tinh thần
dân tộc rất cao, việc làm mà chỉ từ công
đồng Vatican II (1962) mới được cho phép. Ông
đă dùng những quan niệm Tam cương, Ngũ
Thường của nền luân lư Á đông cũng như
những thực tế và truyền thống văn hóa dân
tộc để giải thích giáo lư của Kinh Thánh về
vũ trụ vạn vật. Ông đă theo sát Kinh Thánh
Cựu Ước nhưng đồng thời chứng
tỏ có óc sáng tạo độc đáo và tầm trí
tuệ hiểu Thần học cao hơn cả các vị
bề trên người Pháp của ông ; ngoài việc không
hiểu văn hóa Đông phương, đó có thể là lư
do những người này loại bỏ Sấm Truyền
Ca cho là dị đoan, sái đạo, đi lệch ra ngoài
tinh thần cơ bản của Kinh Thánh. Lữ Y
Đoan chứng tỏ giới linh mục, tu sĩ
thời đó có tinh thần độc lập, tự
chủ, tự hào về văn hóa Việt Nam, b́nh
đẳng với các thừa sai ngoại quốc chứ
không mất độc lập và b́nh đẳng như sau
này khi thực dân Pháp đă thôn tính cả nước
Việt Nam. Và cũng chứng tỏ một tinh thần
khai phóng của con người ở Đàng Trong.
Lữ
Y Đoan đă Việt hóa tên người tên địa
dư của nguyên tác cũng như dịch rất văn
hóa tựa Kinh Thánh Cựu Ước là Sấm Truyền Ca,
Genesia là Tạo Đoan Kinh, Exodus là Lập Quốc Kinh.
Hăy
đọc đoạn thơ "Vào Đề"
quyển I Tạo Đoan Kinh :
"Ngày
ngày trước mắt chúng sinh
Chữ
đời chữ đạo phân minh đôi
đường
Xưa nay trong
kiếp vô thường
Thấy
điều vân cẩu mà thương nhơn phàm
Loài người
từ thuở A-đam
Đua nhau xây
dựng mộng ham làm trời
Một pho Kinh
Thánh ra đời
Chứng minh
vạn đại những lời do Thiên ..."
Thiên
Lập Quốc Kinh th́ được mở đầu
như sau :
"Xưa
nay diễn biến tṛ đời
Đồ
vương tranh bá bao người máu xương
Một dân
dựng nước khác thường
Bàn tay
Thượng đế đo lường trước sau
Giếp Tô
quyền lực Phan trào
Muôn binh hùng
dũng, đất giàu dân đông
Yết Linh
đứng dậy tay không
Phá xiềng nô
lệ về vùng Trà Nam..."
Trong
đoạn trên, Lữ Y Đoan đă có một cái nh́n sáng
tạo độc đáo khi quan niệm chuyện dân
tộc Do Thái (Yết Linh) 40 năm thiên cư qua sa mạc
để về vùng đất hứa Canaan (Trà Nam) như
một sự đứng dậy tay không phá xiềng nô
lệ. Sáng tạo và mới cả đối với ngày
nay, th́ làm sao Sấm Truyền Ca không bị các thừa sai
người Tây phương vốn coi thường văn
hóa phương Đông thời đó hiểu
được.
Đoạn
diễn ca truyện Tháp Babel kể chuyện con cháu ông Nô Ê
(Lữ Y Đoan dịch là Nhữ Y) sau trận hồng
thủy ngạo nghễ rủ nhau xây tháp cao chạm
trời. Chúa đă trừng phạt bằng cách làm cho
họ ngôn ngữ bất đồng không hiểu
được nhau và hết đoàn kết với nhau;
cuối cùng họ phải bỏ dở và phân tán đi
khắp mặt đất thành nhiều chủng tộc
khác nhau:
"Vả
chăng, ngôn ngữ cổ thời
Những
điều cảm nghĩ, nói lời như nhau
Phía Đông
nhiều tộc vùng cao
Dân đông,
đất chật, hoa màu cũng vơi
Định
cư đất mới kịp thời
Bàn nhau xây tháp
để đời hậu lai
Góp nhau vật
liệu đủ đầy
Công tŕnh kiến
tạo mỗi ngày rộng cao
Vươn lên
tháp đụng Thiên Tào,
Muôn đời
danh tiếng, trăng sao phải nhường
Nhân gian ngạo
nghễ thiên đường
Trời rằng:
"Hiệp nhất vi cường, đại công...
Phải cho ngôn
ngữ bất đồng
Mỗi chi
một ngả là xong ư đồ !
Thế là
nhứt hữu cửu vô
Thế nhân
bỏ cuộc, trở cờ chống nhau
Hỗn Lầu
(Ba Bên) danh gọi về sau
Kể từ
việc ấy, ngũ châu người tràn ..."
(đoạn XI)
Ông
đă dịch tài t́nh tháp Babel là Hỗn Lầu, và đă có ư
niệm về năm châu. Trong Sấm Truyền Ca, dịch
giả đă dùng những tư tưởng Phật như
"vô thường, hỉ xả, tiền định,
chống sát sinh", của Đạo học như
"cửu hào, dịch tượng quẻ kiền, thái
ất, vv" và quan niệm Nho giáo như "âm
dương, ngũ hành, hiếu trung, thiên thời, vv" :
"Cơ
trời sinh hóa hóa sinh
Ngũ hành thiên
địa tiến tŕnh yên xuôi" (đoạn II).
Tóm
lại, Sấm Truyền Ca là một tác phẩm thuộc di
sản văn chương cổ điển của dân
tộc hiếm hoi c̣n sót lại sau bao chiến tranh,
khủng hoảng. Sấm Truyền Ca là dấu tích gia tài
của người xưa, dấu tích sáng tạo
đồng thời là dấu tích của tiếng nói và
viết của người xưa. Lâu nay v́ nhiều lư do
đă bị bỏ quên, ngay bởi người Công giáo, th́
nay Sấm Truyền Ca cần được nghiên cứu
hơn nữa. Có thể nói Sấm Truyền Ca là một
giao lưu điển h́nh theo kiểu Việt Nam, khởi
từ căn bản tự chủ dân tộc để
mở tay mở trí thu nhận các nền văn hóa thế
giới.
2.
Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Kư (1879):
Đây
là một tác phẩm sử học viết bằng chữ
quốc ngữ, in lần đầu năm 1879 tại Sài
G̣n (256 trang), do các linh mục địa phận Nam kỳ
ở Tân Định biên soạn và sửa chữa ở
những lần in lại. Nhóm Nghiên cứu Sừ
địa in lại tại Sài G̣n năm 1974 và tái bản
tại Montréal, Canada năm 1986 theo bản in lần 5(1909)
(3). Đây là tập sách lịch sử đầu tiên
viết bằng chữ quốc ngữ được
xuất bản (bản chép tay đầu tiên là của
thầy giảng Bento Thiện năm 1659) v́ công tŕnh
lịch sử có tính cách khoa học đầu tiên do
người Việt biên soạn là bộ Cours d'histoire
annamite tức Giáo Tŕnh Lịch Sử An-Nam của
Trương Vĩnh Kư gồm hai tập mà tập 1 xuất
bản tại Sài-G̣n năm 1875. Tập Đại Nam
Việt Quấc Triều Sử Kư là dấu tích chữ
quốc ngữ và việc học sử ở Nam
kỳ vào cuối thế kỷ XIX. Đặc biệt, tác
phẩm này cung cấp nhiều tài liệu giá trị,
mới mẻ về Tây Sơn và vua Gia Long chưa từng
được các sách sử khác nói đến. Tựa sách
và ở nhiều chỗ trong sách gọi Tây Sơn là
ngụy hay giặc, nh́n chung các tác giả có quan điểm
gần với các sử quan nhà Nguyễn, nhưng Gia Long hay
Nguyễn Ánh đều "được" gọi là
Ông. Khen chê Tây Sơn và nhà Nguyễn khách quan hơn và khác
với quan điểm của sử thần nhà Nguyễn.
Một đoạn nói lên nỗi khổ của
người dân giữa hai lằn "đạn" :
"...
Dầu quân Tây Sơn, dầu ông Hoàng Tôn (cháu đích tôn
Vũ Vương) th́ cũng lấy điều dữ mà
nộ nạt ngăm đe thiên hạ, hầu ép ḷng dân tùy
phục ḿnh; bằng cứ lời nhủ bảo mà thôi th́
chẳng hề đặng việc ǵ. Bởi đó thiên
hạ khốn cực lắm, v́ phải giặc hai bên
chỉ đánh nhau luôn, khi th́ bên nọ thắng, khi th́ bên
kia thắng; thiên hạ chẳng biết vâng cứ ai,
chẳng biết ḿnh thuộc về ai. Hoặc bên nọ
lấy đặng xứ nào một ít lâu, mà đến sau
phải thua chạy bỏ xứ ấy, th́ bên kia liền
bắt tội những người xứ ấy, v́ đă
theo giặc" (tr. 11).
Vũ
Vương tức chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), con là
Nguyễn Phúc Thuần tức Định Vương
nối ngôi cha. Các tác giả cho biết như sau về
nguồn gốc suy yếu của Đàng Trong đưa
đến phong trào khởi nghĩa của Tây Sơn:
"Ông
Hiếu Vũ Vương (...) độc dữ làm khốn
cho người ta quá lẽ, gây cực khổ cho dân. (...)
Ông ấy có ḷng tham cùng xấu tính nết, cho đến
đổi hễ biết ai có của ǵ, hay là sản
vật ǵ quư trọng như chó, ngựa, chim, vườn
hay hoa quả, cây cối, như cam, quít, mít, hồng cùng
những giống khác thể ấy, hay là vợ con
đẹp đẽ xinh tốt, th́ cướp lấy,
cùng bắt nộp những của trọng vật lạ
ấy nữa. (...) V́ Vũ Vương ăn ở thể
ấy nên chẳng c̣n phép tắc ǵ : trong nhà nước các
quan muốn làm sao th́ làm; ai nấy cũng bắt
chước Vũ Vương mà hiếp dân sự. Sau
nữa ông ấy mê sắc dục, ra như chẳng c̣n tính
loài người, chẳng những là có nhiều vợ
chẳng kể xiết, lại cũng lấy con và chị
em làm vợ, mà đă sinh ra nhiều con lắm". (tr. 2).
"Hiếu
Vũ Vương lấy em làm vợ, và sinh đặng
một con trai là Hoàng Thượng. (Ông này) ít trí khôn, cũng
mê ăn uống, chơi bời, xem tṛ xem hát, cùng xem săn
bắn; cho nên các quan có ư t́m ích riêng cho ḿnh, v́ tin thật ông
Hoàng Thượng (Duệ Vương) mê chơi bời làm
vậy, th́ sẽ có tên chúa mà thôi, c̣n quờn thế chi th́
tại ḿnh. Bởi vậy, hai ông ấy (một trong hai là
Trương Phúc Loan) bàn tính với nhau mà lập một phe
kín, và cứ lời Vũ Vương mà giúp ông Hoàng
Thượng. Bao nhiêu quan chẳng hiệp một ḷng
một ư với ḿnh, hay là có ư binh ông Chưởng Vũ
(bố Nguyễn Ánh), th́ t́m lẽ nọ lẽ kia mà
bắt tội cất chức: kẻ th́ phải giam, có
kẻ phải chết chém" (tr. 4).
Về
việc Nguyễn Ánh cầu cứu quân Xiêm :
Giám
mục Bá Đa Lộc qua đến Xiêm, sau "vui
mừng quá bội" được gặp lại
Nguyễn Ánh ở "trong cơi ḥn Dừa cách xa đất
Xiêm ba ngày đàng" (tr.29). Sau đó, "quân Tây Sơn
trở về Qui Nhơn, để ông quan lớn tên là Nam
Đĩnh ở lại trong thành Sài g̣n làm quan quận công
cai trị xứ Đồng Nai, và các xứ khác xung quanh.
Vậy ông Nam Đĩnh ấy gửi thơ cho vua Xiêm mà
cách nói phụ phàng rất kiêu ngạo, cùng lấy quyền
bề trên mà truyền dạy cho ông vua Xiêm hoặc vua An Nam
là ông Nguyễn Ánh có qua bên Xiêm hay là có gặp vua ấy
ở đâu th́ phải bắt mà nộp cho ḿnh bằng
không th́ sẽ đem quân sang đánh mà đoạt lấy
cả nước Xiêm. Vua Xiêm thấy thơ ấy nói
một cách vô phép làm vậy th́ giận lắm, cùng quyết
sang đánh giặc bên An Nam để phạt quân ấy
song chẳng có ư cứu vua An Nam đâu".
"Đức
Thầy Vêrô (Bá Đa Lộc) biết ư vua Xiêm nên đă xin
vua An Nam dầu khốn cực thế nào th́ cũng
đừng bao giờ tin cậy vua Xiêm, v́ vua ấy có ư làm
hại nước An Nam mà thôi. Cho nên khi Đức Thầy
c̣n ở bên Xiêm mà xin phép về, th́ chẳng nói tỏ ḿnh có
ư giúp vua An Nam, một lấy lẽ khác. Người
lại thử ư ḷng vua và các quan Xiêm, th́ đặng biết
mọi sự. Vậy người lại vào trong cơi ḥn
Dừa, ở lại hai tháng tṛn, mà bàn các việc cùng vua.
(...) Các quan đă bỏ vua hết, c̣n một chiếc
tàu và ba trăm quân mà thôi" (tr.30).
"...
Vậy vua thiếu thốn thể ấy th́ xin Đức
Thầy Vêrô chịu sang bên Tây xin vua Langsa sai nhiều binh qua
cứu giúp ḿnh. Vua giao ấn nhà nước cùng ban phép
rộng cho người được giao cùng vua Langsa
thế nào th́ ḿnh sẽ ưng thể ấy" (tr. 30).
"...Quân
Tây sơn những t́m bắt người (Nguyễn Ánh), nên
phải cứ ẩn ḿnh trong ḥn Dừa, và sai kẻ đi
dọ trong các xứ xung quanh cho biết việc ra thể
nào. Quân do ấy đến Hà Tiên, th́ gặp một
đội quân Xiêm đang sắm sửa đi đánh quân
Tây Sơn. Quan đại tướng quân Xiêm biết là quân
do vua An Nam sai th́ tỏ ḷng thương cùng cho xem sắc
chỉ vua Xiêm đă sai ḿnh đi đánh quân Tây Sơn, và nói
nhiều lời cho quân do tin thật, bởi vua Xiêm có
nghĩa riêng với vua An Nam, mới sai ḿnh đi đánh
giặc mà cứu. Cho nên nếu vua An Nam có sẵn ḷng
hiệp cùng ḿnh, th́ càng dễ lo liệu các việc. Quân Xiêm
lại gởi nhiều của lễ quí trọng mà
mừng vua. Vua nghe các điều ấy th́ chẳng vội
tin, một sai người khác hai ba lần, cho đặng
biết quân ấy có ư đánh giặc mà giúp ḿnh chăng.
Kẻ ấy trở về cũng nói như những
người trước, và quyết quân Xiêm có ḷng ngay và có
ư cứu giúp vua thật. Bởi đó vua mới sang Hà tiên
cho đặng gặp quan đại tướng Xiêm.
Nhưng mà khi đến nơi, th́ quân Xiêm bắt lấy và
chẳng nói đến sự đi đánh giặc nữa,
một sắm sửa trở về nộp vua An Nam cho vua
Xiêm. Bấy giờ vua thấy ḿnh mắc mưu làm vậy,
th́ phàn nàn cho đến đổi la khóc cùng trách ḿnh
dại, v́ nhớ khi trước Đức Thầy đă
nói đi nói lại rằng : không nên tin quân Xiêm bao giờ,
bởi v́ quân ấy chẳng thực ḷng, song hối
bất cập" (tr. 31-32).
Toàn
bộ cuốn sử này viết từ thời kỳ
Vũ Vương đến thời vua Gia Long, sách không
liệt kê các nguồn tài liệu hoặc nhân chứng và có
nhiều sai lầm về tên gọi như các quốc
hiệu nước ta, chỉ dùng "Giao Chỉ",
"An-Nam" để gọi chung. Việc này dễ
hiểu v́ trước thế kỷ XX, thi Hương
chỉ thi Bắc sử (Trung Hoa), đến đầu
thế kỷ XX mới cho học và thi Nam sử; và cuốn
sử duy nhất là bộ Đại Việt Sử Kư Toàn
Thư khắc in từ cuối thế kỷ XVII mà không
phải ai cũng có ở tầm tay trong hệ thống in
ấn và thư viện ngày xưa. Đó là lư do của
những sai lầm trên. Tác phẩm sử này có thể
viết từ tài liệu riêng của các giáo sĩ nhân
chứng thời kỳ lịch sử đó. Đặc
biệt của tập Đại Nam Việt Quấc
Triều Sử Kư là quan điểm không theo chính sử và
những chi tiết cụ thể kể lại với
một ngôn từ b́nh dị của cuối thế kỷ
XIX chứ không như những bộ sử chính thức.
Một cuốn sử viết theo lối Tây phương,
của những người dân thường, Công giáo,
ở miền Nam. Gần đây có khuynh hướng xét
lại "công tội" của hai vua Nguyễn Huệ
và Nguyễn Ánh, chúng tôi tin cuốn sử đặc
biệt này sẽ giúp ích không
nhỏ.
3.
Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch (1916):
Đây
có thể nói là một trong những truyện Việt Nam
viết theo truyện Tàu đâu tiên đượm tinh
thần Thiên Chúa giáo. Truyện được đăng
trên tờ Nam Kỳ Địa Phận từ số 403
(1916) đến số 415 (1917), tác giả là Charles Ngọc
Minh đến nay vẫn chưa t́m ra tiểu sử.
Truyện cho thấy ở Nam-Kỳ, truyện Tàu rất
ảnh hưởng đến quần chúng thế nào,
khiến cho những người truyền đạo
mượn lối viết đó để truyền bá
đạo mà tác giả tin là phù hợp với đạo
lư dựa trên Nho học b́nh dân. Truyện cũng có nhiều
t́nh tiết giống các truyện Kiều và Lục Vân Tiên;
các truyện này được viết theo thể văn
vần trong khi Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch viết theo
văn xuôi.
Đoạn
mở đầu truyện :
"Tôi
thường nghe bên Nho giáo nói rằng : Họa vô đơn
chí (cái họa không xảy đến lẻ một ḿnh).
Chữ từ chữ th́ nghĩa như vậy mà hiểu
cho rơ câu ấy có ư chỉ làm sao, th́ tôi chưa hiểu rơ.
Nay nhơn lúc rảnh, giở sách tích truyện đời
xưa gặp cái cơ hội nhà ông Gioang này, th́ bây giờ
tôi mới thấu động ư nghĩa sâu cái câu
"họa vô đơn chí" là ǵ."
Sau
đó tác giả cắt nghĩa thêm : "Anh hùng hào kiệt
đời xưa có chăm lo bốn chữ Trung Cang
Nghĩa Khí, th́ vẫn có ư trông danh vọng lưu hậu
thế, hoặc cho đặng thắng lộc tấn
quyền. C̣n như ông Ngô Kim này th́ lại khác, không màng chi
danh tiếng phước lộc, can tâm gánh hết các
sự gian nan v́ biết trong trời đất có
Đấng Chí Linh, công b́nh chính trực, chầy kíp cái
nạn người ngay có ngày phải hết, đặng
lănh thưởng và chẳng bao lâu chước độc
kẻ gian phải tỏ bày mà chịu phạt..."
Truyện
Ông Gioang Ngô Kim Thạch theo thể truyện chí của
Tàu ở chổ nội dung nói chuyện đạo
đức, ở lối chia truyện làm 11 hồi với
hai câu thất ngôn ở đầu mỗi hồi, cũng
như lối mở đầu câu chuyện :
"Lối
năm 1685, gần rốt đời nhà Minh, buổi vua
Thần Tông, ở Triệu Khánh phủ về tỉnh
Quảng Đông có nhà kia hai vợ chồng sanh đặng
một trai đặt tên là Joseph Ngô Kim Luông, cha tên là Gioang
Ngô Kim Thạch, mẹ là Martha Đặng Ngọc Khanh".
Nội
dung là chuyện luân lư, một kết hợp giữa tam
cương ngũ thường của đạo Nho
với mười điều răn (thập giới)
của Thiên Chúa Giáo, giữa nhân ái của Khổng giáo
với bác ái của đạo Chúa, với đức tin
vào Thiên Chúa là cha trên trời chí công và chí nhân:
"Ông
Gioang Ngô Kim ra sức dạy dỗ con cho nó ghi tạc vào
ḷng khăng khăng đức tin, cậy, kính, mến, và
lo các nghĩa cho con hiểu biết mấy điều
luật tự nhiên : Tam giáo và tam cương ngũ thường
(...) Cha mẹ yêu thương con thật, nhất là v́ có
một con mà thôi, song cha mẹ bằng ḷng thấy con chết
trước mặt, chẳng thà thấy con sai lỗi
điều ǵ trong đạo thánh, tam cang ngũ
thường. Chẳng những lành phải trả lành, mà
lại dầu dữ cũng phải trả lành thay
vậy, mắc giữ sự trung với bạn trung, mà
cũng mắc giữ trung với kẻ bất trung
nữa, làm người th́ phải lo cho tṛn trung tín".
Truyện
kể chuyện cấm đạo bên Trung Hoa nhưng tác
giả có ngụ ư nói chuyện Việt Nam. V́ cấm
đạo, nhiều vị quan tài ba phải lẳng
lặng từ quan quy điền, gia đ́nh ông Gioang Ngô Kim
Thạch phải trốn lên núi, rồi lạc nhau và
phải chịu nhiều đau thương. Nhưng chính
những người bị vua quan bách hại v́ nghi ngờ
ḷng trung lại là những người trung quân ái quốc.
Cuối cùng biết chuyện, vua đă phong tặng các
người có đạo và ban sắc chỉ khen
đạo "cho phép mọi người giữ
đạo và phép đạo mặc ư ḿnh". Con ông Ngô Kim
Thạch là Kim Luông giúp vua đánh diệt giặc,
được vua quan phong lănh ấn Nhị Lộ Nguyên
Soái. Vua đón Kim Luông hồi triều, lại đứng
ra làm chủ hôn: "Vua đứng làm mai và cho phép làm theo
lễ phép hôn nhân có đạo. Cũng thêm một dịp
cho vua chúa nh́n biết ḷng can đởm trung quân ái quốc.
thẳng ngay của kẻ có đạo. Và từ đó vua
ra sắc ban khen đạo thánh Chúa Kirixitô và cho phép giữ
đạo và phép đạo mặc ư ḿnh". Rơ là
những lời muốn nhắn gửi những vị vua
thiển cận như Minh Mạng, Tự Đức đă
nhắm mắt nghe sự xiển nịnh các vị hủ
nho. Chính sự hủ lậu này làm mất nước
chứ không phải v́ đạo Chúa; đạo nào cũng
có kẻ theo giặc, ai đi với giặc th́ cứ
bắt người đó nhưng đừng lấy
cớ đó để bắt đạo, cấm
đạo !
Tiếng
Việt dùng trong truyện là một lối văn b́nh
dị, đơn sơ mà sáng sủa, của đầu
thế kỷ XX, khác xa truyện Kiều và gần với
Lục Vân Tiên về tiếng nói dân gian, ngôn ngữ của
người b́nh dân.
4.
Tiếng "Nhà Thờ" Hay Tiếng Việt Xưa?
Tác
phẩm chữ Nôm xưa hiện có phải nói đến
là cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông (thế kỷ XVII)
của Majorica và một tác phẩm văn học xưa
viết bằng chữ quốc ngữ đă in là cuốn
Inê Tử Đạo Văn gồm 560 câu thơ lục bát
in trong cuốn Tự Vị Latinh-Việt Tabert (1838).
Nhưng qua ba tác phẩm vừa giới thiệu,
người đọc đă có thể thấy có một
thứ tiếng Việt khác phần nào với tiếng
Việt hiện nay, khác về cấu trúc, khác trong cách
xử dụng chữ và thành ngữ, tiếng Hán Việt
cũng ít hơn, vv.
Tiếng
nói là một bộ phận chính của văn hóa một dân
tộc. Tiếng Việt từ thời Trịnh Nguyễn
phân tranh và Nam tiến cho đến ngày nay đă có những
khía cạnh chưa được điều nghiên kỹ.
Chiến tranh nối tiếp nhau đă khiến con
người chỉ lo sống c̣n, rồi trở nên phân hóa,
có những thành kiến, vv. Tiếng nói và chữ viết
người Việt chúng ta đă tiến hóa theo thời
đại và con người. Nhưng nếu tiến hóa mà
mất cội nguồn, phải chăng đó là chuyện
tốt ?
Cuối
thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, sự
mở cửa đón nhận những trào lưu văn hóa
và khoa học hiện đại, tiếng Việt đă
phải thu nhận, sáng chế ra thêm những từ
ngữ mới. Nghiên cứu sách báo xuất bản trong Nam
là nơi phải tiếp xúc văn hóa thực dân
trước, cho thấy có những cố gắng du
nhập trên căn bản dân tộc, những cuốn từ
điển của Húnh Tịnh Paulus Của, Trương
Vĩnh Kư, những biên khảo giới thiệu các khoa
học mới như Phép Toán, Phép Đo, Bác Học Sơ
Giai của Húnh Tịnh Paulus Của, rồi những phong
trào Đông Du, Duy Tân xuất phát trước trong Nam. Từ
1903, các nhóm Nghĩa thục ở miền Trung rồi Đông-kinh
nghĩa-thục (1907) ở Hà Nội đă bắt
đầu dịch danh từ chung từ tiếng Hán.
Đàng Trong và miền Nam cho đến đầu thế
kỷ XX đă thành công chận đứng xâm nhập
văn hóa từ thuộc địa Pháp bằng cách phát huy
những căn bản văn hóa b́nh dân của dân tộc.
Xuất hiện sau nhưng báo chí miền Bắc có thể
v́ vị trí địa lư thuận tiện và cũng có
thể v́ giới trí thức dễ đón nhận sản
phẩm văn hóa ngoại nhập dễ dàng từ hàng xóm
Trung Hoa, do đó các trào lưu văn học và khuynh
hướng học thuật đă dễ nhập
đất "ngàn năm văn vật", mà sau đó các
trường phái văn học và tư tưởng cũng
đâm bông dễ dàng hơn ở vùng đất này. Trên
tạp chí Nam Phong số 16 (tháng 10-1918), ông Nguyễn Háo
Vĩnh, kư giả, từ Sài G̣n gửi "Thư ngỏ
cho chủ bút Nam Phong" đă lên tiếng đả kích
chủ trương nhu nhập ào ạt vào tiếng
Việt những từ ngữ mượn từ tiếng
Hán Việt mà lúc bấy giờ Phạm Quỳnh, chủ bút
Nam Phong là người hăng hái nhất cùng với các
cộng sự viên khác như Nguyễn Đỗ Mục,
Phan Kế Bính, vv. Nam Phong đă có những ảnh
hưởng rất lớn về văn chương
học thuật và đă đóng góp nhiều cho sự phát
triễn của chữ quốc ngữ, nhưng
đồng thời đă biến tiếng Việt phát
triễn theo một con đường tuy lớn rộng
nhưng đă xa lần những người Việt không
đi cùng đường và người Việt trong Nam, và
nhất là đă trừu tượng hóa ngôn ngữ Việt
Nam.
Miền
Nam đă là nơi trú ẩn những thành phần chống
lại đô hộ văn hóa của Tống Nho, những
người chỉ thu nhận những cốt lơi văn
hóa của Tam giáo, sau lại là phần đất tị
nạn của những người Việt theo đạo
Thiên Chủa hoặc không sống được ở
Đàng Ngoài. Phan Khôi đă nh́n nhận : "Đại khái
chữ quốc ngữ nước ta, phát nguyên tuy từ
Bắc, mà bắt đầu thạnh hành lại từ miền
Nam. Cho nên bây giờ chúng ta có thể nói được
rằng xứ Nam kỳ đối với lịch sử
chữ quốc ngữ lại có quan hệ mật thiết
hơn Trung, Bắc kỳ" (4). Xin nhắc : ông Phan Khôi
đă nói như vậy vào năm 1929 ! Trong khi đó nhà phê
b́nh Vũ Ngọc Phan trong bộ Nhà Văn Hiện
Đại (1941) ở phần "Những nhà văn
hồi mới có chữ quốc ngữ" nh́n nhận
"người Nam kỳ là những người Việt
Nam đă dùng chữ quốc ngữ trước
nhất" và cho rằng thứ chữ quốc ngữ do
các "cố đạo Gia-Tô" đặt ra đă dùng
"giọng Bắc Kỳ và giọng miền Bắc Trung
Kỳ là đủ" v́ "người Nam Trung Kỳ và
Nam Kỳ phát âm sai", "càng xuống miền Nam càng
nhiều, càng thấy sai bấy nhiêu" (5). Họ Vũ
đă không phân biệt văn nói với văn viết, và
người trong Nam từ Trương Vĩnh Kư
đến Hồ Biểu Chánh đă dùng tiếng Việt
xưa trước thời Nam tiến. Ông Nguyễn Háo
Vĩnh trong thư nói trên đă cắt nghĩa thêm : "Khi
nước Lăng-sa qua giao thông với nước ta th́
trong cơi Nam-kỳ nổi lên một người là ông Trương
Vĩnh Kư mượn cái xác la-tin mà dựng lại cái
hồn của tiếng A-Nam c̣n sót lại. Cái xác la-tin
ấy là chữ quốc ngữ bây giờ! Cái hồn
của tiếng ta c̣n sót lại lần lần nhập vào
xác mới và trong khoảng năm sáu mươi năm
vừa qua rồi, cái xác mới với cái hồn xưa
vừa ưa nhau, vừa quen hơi nhau, hiệp sức mà
tiêu hóa cái sự phát ách tiếng chệt"(6). Riêng Linh
mục Thanh Lăng đă ghi lại công lao của nhà văn
tiền bối Hồ Biểu Chánh bỏ lối văn
biền ngẫu "vô lối" thịnh hành thời
đó như sau: "Hồ Biểu Chánh là người
đàu t́ên làm cách mạng: đăp vỡ cái khuơn
khổ văn chương đài các giả tạo ấy.
Ông đặt vào miệng các vai truyện của ông
những ngôn ngữ đơn sơ chất phác, lắm khi
thô tục nữa là khác (...) Hơn thế nữa, Hồ
Biểu Chánh c̣n là văn sĩ của miền Nam, dùng
tiếng đîa phương. Văn của ông là văn cùng
chung truyền thống với Huỳnh Tịnh Của,
Trương Vĩnh Kư... tức là nói và viết "tiếng
A-Nam ṛng" là viết tiếng Việt "trơn
truột như lời nói". Cái chủ trương
của Trương Vĩnh Kư cũng là chủ trương
của các văn gia miền Nam: chống đối văn
đài các miền Bắc (...) (7).
Thật
vậy, người miền Nam lúc bấy giờ đă
không hiểu thứ tiếng Việt dùng trên Nam Phong tạp
chí. Nhập cảng từ vựng Trung Hoa rồi Hán
Việt hóa, trong khi đó tiếng Việt đơn
giản đă có lại không được dùng, cái họa
bắt đầu được nh́n thấy, người
c̣n để lại dấu vết là ông Nguyễn Háo
Vĩnh, tác giả cuốn Cách Vật Trí Tri Phổ Thông
Sơ Giai (1927) và chủ trương báo Khoa Học Tập
Chí từ năm 1924. Ông tố cáo tạp chí Nam Phong: "Các
ngài làm thư thế th́ h́nh như các ngài là người Tàu
qua lấy nước An Nam, muốn đem tiếng nó qua mà
thế tiếng ta vậy" (8).
Trong
Sấm Truyền Ca, Đại Nam Việt Quấc Triều
Sử Kư và Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch, ta đă
thấy tiếng Việt miền Nam ở thế kỷ
XVII đến XX đơn giản và b́nh dị. Rồi
trong Tuồng Cha Minh (1881, thật ra gần kịch nói
hơn là tuồng), theo giáo sư Hoàng Châu Kư từng viện
trưởng viện nghiên cứu sân khấu Hà Nội,
văn đối thoại trong vở này rất gần
gũi với lời nói của dân giả, mới mẻ và
đơn giản hơn câu văn đầu thế kỷ
XX như văn Nam Phong chuộng lối văn biền
ngẫu và cách điệu. Ông nhân đó đặt lại
quan niệm cho rằng vở kịch Chén Thuốc
Độc của Vũ Đ́nh Long diễn năm 1921
ở Hà Nội là vở kịch nói đầu tiên (9).
Học
giả Phan Khôi trong bài "Chữ quốc ngữ
ở Nam kỳ với thế lực của phụ
nữ" trên tờ Phụ Nữ Tân Văn số 28
(7-11-1929) đă nh́n nhận thứ chữ quốc ngữ
dùng trong môi trường đạo Công giáo thống
nhất một mối nghĩa là pha lẫn Bắc Nam. Ông
cũng đề cao hai tiền bối Trương Vĩnh
Kư và Húnh Tịnh Paulus Của mà ông tôn là "đại
sư" v́ hai ông đều viết đúng tiếng
Việt : "hai ông cùng học trường bên Đạo
mà ra cho nên các ông ấy viết chữ như người
bên Đạo nghĩa là viết đúng" (10).
Tưởng cũng nên ghi lại ở đây,
"trường phái" Trương Vĩnh Kư tiếp
nối với Trương Minh Kư, Nguyễn Trọng
Quản tác giả Thầy Lazarô Phiền, tiểu thuyết
đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ. Linh
mục Thanh Lăng trong các nghiên cứu cuối đời,
những nghiên cứu trong tâm t́nh dân tộc như ông đă
tự kiểm thảo (11), đă kết luận về
tiếng Việt "nhà thờ" "đúng thật là
tiếng Việt thông thường, phổ thông mà mọi
người Việt thời xưa đă nói, tức là cái
giới gọi là "nhà thờ" đó, đă nói như
mọi người Việt nhà quê cái thứ tiếng nói nhà
quê, tiếng nói dân gian mà mọi người Việt nhà quê
nói với nhau, hiểu vơí nhau một cách b́nh
thường" (12). Cũng theo ông, tác phẩm do cộng
đồng Công giáo biên soạn vào thế kỷ XVII
hiện c̣n giữ được, sách vở bằng
chữ quốc ngữ chỉ có khoảng 700 trang, trong khi
đó tài liệu bằng chữ Nôm c̣n đưộc 14
tựa với cả 4200 trang; 4200 trang chữ Nôm gốc
của thế kỷ XVII chưa bị sửa đổi
theo thời gian. Ngoài các tác phẩm chữ Nôm và quốc
ngữ đă giới thiệu ở trên, c̣n có nhiều
văn bản chữ Nôm và quốc ngữ khác
được lưu trữ ở Âu châu mà các giáo sư
Hoàng Xuân Hăn, Tạ Trọng Hiệp, linh mục Thanh Lăng,
Đỗ Quang Chính, v.v. đă khám phá và chụp vi bản
đem về nước. Viện Hán Nôm thuộc Viện
Khoa học xă hội đă sưu tầm được 24
văn bản chữ Nôm thuộc thế kỷ XVII trong
đó có những bản từng được lưu
trữ ở chùa Kiểng Phước tại Vọng Các,
Thái Lan. Những văn bản sau này là dấu vết
chữ Nôm dùng ở đàng Trong.
Những
người đàng Ngoài vào Nam lập nghiệp, theo chân các
chúa Nguyễn, đă mang theo gia tài văn hóa trong đó có
tiếng nói và chữ viết Nôm (và chữ Hán). Sự phân
chia địa lư sẽ đưa đến những
dị biệt hay cách biệt về văn hóa. Một
văn hóa trưỡng thành song hành với những
điều kiện khác biệt và với những con
người thành phần tập hợp mới. Ông bà ta
sẽ đồng hóa người Chiêm Thành, nhưng ta
cũng đă bị ảnh hưởng trở lại
về văn hóa. Tổ tiên ta cũng sẽ nuốt
phần Thủy Chân Lạp. Vua chúa nhà Nguyễn sẽ
mở rộng tay đón nhận con cháu nhà Minh; những
người này sẽ khai phá những vùng thị tứ
mới nay là Chợ Lớn, Biên Ḥa, Hà Tiên, v.v. Xa Đàng
Ngoài, một tập thể người Việt mới
được thành lập, trên mảnh đất đă
trăi qua những văn minh Sa Huỳnh, Đồng Nai
hoặc xa xưa hơn như Óc-Eo, Phù Nam; những lưu
dân này sẽ giữ lại những ṇng cốt văn hóa
của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đại
thừa rồi thêm ảnh hưởng của Phật giáo
tiểu thừa và đạo Bà La Môn.
Từ
những lư do đó, tiếng nói lưu dân nơi vùng
đất mới sẽ cập nhật theo hoàn cảnh
sinh hoạt và môi trường địa lư mới.
Những "hội nhập" này khiến chữ
viết Nôm trong Nam đă có những biến hóa, cấu trúc
khác đi theo phát âm, lối viết và phương ngữ
Nam bộ. Thí dụ phương ngữ như
"chả", "dùa", dị biệt về phát âm
như "Chun, chuyến, chiền", thay v́ "chung,
chiến, truyền / chuyền" (13). Từ đó như
tạo thành một "thứ" tiếng Việt
của miền Nam lưu dân mà từ lâu nay vẫn bị
gán là "tiếng của nhà thờ". Ông Nguyễn Háo
Vĩnh trong bài nói trên đă viết tiếp lời phê
về văn Nam Phong như sau : "Coi mà chẳng hiểu
th́ có ích ǵ đâu, dần dần người ta ngă ḷng trông
cậy chẳng c̣n muốn coi nữa". Mới nghe th́ có
vẻ văn "nhà thờ", nhưng thật ra không có
thứ văn nào gọi là văn "nhà thờ",
chỉ có tiếng Việt dùng vào chốn nhà thờ cũng
như tiếng Việt dùng ở chùa đ́nh vậy thôi.
Với những khám phá mới, có khi chỉ là một
trở về nguồn với văn bản thời
thế kỷ XVII và sau đó như đă đề cập
trong bài này, có thể nói từ khi Nam Bắc phân tranh, ở
Đàng Trong, tiếng nói bắt đầu xa dần
đồng bào ở Đàng Ngoài; đến khi các vua
Nguyễn Huệ và Gia Long thống nhất đất
nước, tiếng Việt Đàng Ngoài sẽ tiếp
tục phát triễn theo một hướng độc
lập với người trong Nam, trở thành một
tiếng nói và viết có khác biệt. Trong khi đó trong Nam,
đồng bào di dân từ Bắc vào, từ các thế
kỷ XVII và XVIII, vẫn tiếp tục nói tiếng nói
họ mang theo vào. Đó là tiếng Việt được
giới tu sĩ và giáo dân Công giáo như các linh mục
Lữ-Y Đoan, Philippe Phan Văn Minh, v.v. xử dụng
cũng như mọi người trong cùng xă hội. Đó
cũng là tiếng Việt mà các nhà văn nhà báo và trí
thức trong Nam từ Trương Vĩnh Kư, Húnh Tịnh
Paulus Của đến Nguyễn Trọng Quản,
Trương Minh Kư, Nguyễn Háo Vĩnh, các nhà báo của
tờ Nam Kỳ Địa Phận, v.v. xử dụng.
Đó cũng là tiếng Việt mà những cộng
đồng người Việt lưu vong ở Miên, Lào và
Xiêm vẫn nói từ khi họ phải rời đất
nước. Tiếng Việt đó là tiếng Việt
thống nhất mà Phan Khôi trên Phụ Nữ Tân Văn nói
đến và khởi từ đó ông phê b́nh những nhà báo
ở Sài G̣n lúc bấy giờ viết sai tiếng Việt -
nghĩa là sai tiếng Việt của Trương Vĩnh
Kư, Húnh Tịnh Paulus Của, tiếng vẫn bị coi là
của "nhà thờ" ! Nếu có ai muốn phê
người Nam viết sai nói sai -là chuyện có, những
nhà văn nhà báo viết sai theo tiếng nói sai, tức
chỉ một phần trong số các nhà văn miền Nam,
từng là đói tượng chỉ trích của học
giả Phan Khôi nói ở trên, th́ không nên tổng quát hóa, mà nên
phân biệt với tiếng Việt thống nhất này,
tiếng xưa nay đă có nhiều dấu vết ở
trong Nam !
Như
vậy, v́ hoàn cảnh canh tân, hiện đại, tiếng
Việt đă phát triễn mạnh từ những năm
1920 với sự nhập cảng ồ ạt từ
vựng mới của Trung Hoa (và Nhật) với tạp
chí Nam Phong, sau đó theo đà Âu Tây hóa, các báo của Tự
Lực Văn Đoàn, Tân Dân, nhóm Hàn Thuyên, rồi phân chia Nam
Bắc, tiếng Việt thêm nhiều từ mới.
Nhưng tiếng Việt trước 1920 bị xem là
tiếng "nhà thờ" và bị bỏ quên, các hoàn
cảnh biến cố tiếp sau đó đă tiếp
tục đẩy đưa cái khuynh hướng này. Cùng
tiếng nói nhưng có những dị biệt về
chữ viết, thành ngữ và phát âm khiến không hiểu
nhau trọn vẹn. Đây cũng cùng trường hợp
với tiếng Pháp dùng ở Canada là tiếng Pháp cổ
thế kỷ XV do những di dân từ mẫu quốc sang
vẫn xử dụng. Đế quốc Pháp thua Anh, bỏ
rơi luôn dân của họ. Bên này Đại Tây
Dương, người mẫu quốc phát triễn
tiếng nói và xa dần hẳn tiếng Pháp của "anh
em họ" (cousins) ở Canada.
Mặt
khác, cùng trường hợp với văn học Việt
Nam trước khi có chữ quốc ngữ đă có hai ḍng
b́nh dân và bác học "nói chữ", tiếng Việt
trước 1920 đơn giản, b́nh dị thế nào th́
tiếng Việt canh tân sau 1920 trừu tượng hơn
nhiều, dù từ những thế kỷ XVII đă có nhu
cầu sáng chế nhiều từ Hán Việt và từ Tây
phương hóa (phiên âm theo tiếng Tây phương)
để theo kịp đà tiến hóa và tiếp xúc với
Tây phương. Trừu tượng, đó là lư do khiến
kư giả Nguyễn Háo Vĩnh phàn nàn với ông Phạm
Quỳnh. Một "học sanh về điện máy chuyên
nghề", Nguyễn Duy Thanh ở Paris, góp ư trên Phụ
Nữ Tân Văn số 119 (18-12-1932), đă chỉ trích
Phạm Quỳnh làm tối tiếng Việt. Ông đưa
ra những thí dụ những tiếng Việt dễ
hiểu như "màng ngăn bụng, mạch máu nhỏ
tí, mạch máu đi, mạch máu về" hay "chung
của" bị ông Phạm Quỳnh thay thế bằng
"hoành cách mô, vi ti huyết quản, hồi huyết
quản, khứ huyết quản" và "cộng
sản". Theo ông, người Tàu phát âm ngọng v́ có
những âm không có trong tiếng nói của họ, nên đă
phiên âm sai nhiều danh từ riêng và địa lư như Hoa
Thịnh Đốn (Washington), Anh Cát Lợi (England), Bỉ
Lợi Th́ (Belgium), nay Phạm Quỳnh "theo đuôi"
người nói ngọng th́ lại càng đi xa từ
gốc (14). Trong số những độc giả phản
đối Phạm Quỳnh có hai ông Nguyễn Văn
Ngọc và Dương Quăng Hàm lúc đó hăy c̣n là sinh viên
cũng đă lên tiếng phản bác chủ
trương/khuynh hướng nói chữ mà họ cho là
"lố bịch" của Nam-Phong. Và nhiều từ
Hán-Việt do Nam-Phong tạp chí xướng lên đă rơi
vào quên lăng, như: liễu kết, chuâu tuần, diên
mạn, phó nạn, (kẻ) hậu tấn, v.v. Đó là
với người có học; c̣n người b́nh dân
chắc c̣n ít hiểu tường tận những chữ
như "ư thức hệ, thủy quân lục
chiến" chẳng hạn, dù họ nghe đă quen và
biết là nói cái ǵ. Rồi chính chữ quốc ngữ
cũng trở thành một trở ngại cho sự phát
triển kiến thức, có thể cả tinh thần, v́ so
với chữ Nôm, chữ quốc ngữ không
"hồn", thường hay trùng chữ trùng âm và không
gợi h́nh, rất hợp cho tưởng tượng
thơ văn và "chơi chữ" nhưng xa dần
căn bản ư nghĩa của văn tự dễ
đưa đến những diễn văn không nội
dung hoặc "ông nói gà bà nói vịt" !
Văn học Việt Nam cổ kim có những nhà văn
thơ lớn như Nguyễn Trăi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, vv tư tưởng tâm t́nh rất tổng
hợp về tín ngưỡng, về nguồn cảm
hứng. Đến các tác giả miền Nam của thời
văn học quốc ngữ tiên phong cũng tỏ ra
rất tổng hợp và khai phóng về văn hóa. Văn
học đă tổng hợp, khai phóng, người nghiên
cứu không thể không có được cái tinh thần
chủ động căn bản của nền văn
học đối tượng nghiên cứu đó.
Văn
học Việt Nam ngày nay phong phú với nhiều thể
loại đa dạng nếu so với văn chương
cổ điển Hán Nôm thời lịch triều xưa :
tiểu thuyết, kịch nói, bút kư, hồi kư, báo chí, vv.
Đây là những h́nh thức diễn tả văn hóa
của Tây phương ta đă du nhập, khởi
đầu với các tác giả Thiên Chúa giáo v́ họ
gần gũi và theo đa số hay v́ tiện lợi
phổ thông (chẳng hạn vào thế kỷ XVII, giới
tu sĩ Công giáo đă viết chữ Nôm nhiều hơn
chữ quốc ngữ, như đă nói ở trên) : thể
nhật kư với Philipphê Bỉnh (Sách Sổ Sang Chép Các
Việc, thế kỷ XVIII), thể kịch nói với
Tuồng Cha Minh (1881), thể khảo cứu về thể
loại văn học với Hồ Ngọc Cẩn tác
giả loạt bài Thi Phú Qui Pháp trên Nam Kỳ Địa
Phận năm 1913 (Việt Hán Văn Khảo của Phan
Kế Bính ra đời 17 năm sau), thể kư sự
với Trương Vĩnh Kư (Chuyến Đi Bắc
Kỳ Năm Ất Hợi, 1876), thể truyện với
Nguyễn Trọng Quản (Thầy Lazarô Phiền, 1887),
thể hồi kư với Michel T́nh (Chơn Cáo Tự Sự,
la petite biographie de Michel T́nh par lui même, 1910) . Ba tác giả sau
viết ngoài môi trường giáo hội. Và trái với
những ǵ nhiều người vẫn nghĩ, người
Việt đă tham gia tích cực trong việc sáng chế ra
chữ quốc ngữ: thầy giảng Bento Thiện
đă viết về lịch sử nước ta từ
năm 1659 bằng chữ quốc ngữ như đă nói
đến ở trên, và cuốn Từ Điển Tabert là
công tŕnh của các cộng tác viên người Việt
như linh mục Philippe Phan Văn Minh, tác giả Phi
Năng Thi Tập.
V́
lẽ đó, những ǵ chúng tôi nêu lên trong bài này, cũng
như trong bài Miền Nam Khai Phóng, chỉ nhắm bổ túc
những thiếu sót, khiếm khuyết và đưa ra
một số đặc thù văn hóa, xă hội chứ
không phải để chia rẽ, kỳ thị, v́ chúng tôi
chủ trương phải thống nhất tiếng
Việt. Để mọi người có thể hiểu
nhau và nếu chúng ta c̣n muốn hiểu nhau! Thống
nhất đồng thời phải chấp nhận có
những đặc thù địa phương phải tôn
trọng. Về tiếng nói cũng như văn học
sử. Mặt khác phải có thái độ chấp
nhận, sát nhập các tác giả tác phẩm của
người Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Phật giáo Ḥa
Hảo v.v. vào ḍng văn hóa chung. Thơ văn đời
Trần có nội dung Phật giáo, đời Lê và Nguyễn
rất Nho giáo, đă là gia tài văn hóa chung của
người Việt, vậy không lư ǵ thơ văn do
người Công giáo viết ra lại bị xếp
loại ra ngoài. Nay là thời đa văn hóa, đối
thoại, cảm thông, mà ngay từ thời lập quốc,
dân tộc ta từng tỏ ra rất bao dung và khai phóng:
đă qua rồi cái thời xem cái ǵ liên hệ đến
đạo là không phải dân tộc hay không phải là
văn hóa. Vả chăng, Phật, Chúa, Khổng hay Lăo,
đâu có tín ngưỡng hay tôn giáo nào xuất phát từ
Việt Nam; tổ tiên chúng ta đă đón nhận và
sống với các văn hóa, tư tưởng, tôn giáo
ngoại nhập qua bao thế kỷ, có thời Phật Nho
đă là quốc giáo, nhưng khi xong nhiệm vụ vẫn
trở về trong tâm linh người Việt, một tâm
linh tổng hợp, trong tinh thần khai phóng, bao dung.
Ở
trong nước, từ hơn mười năm nay,
những người nghiên cứu của nền văn
học vẫn nỗi tiếng là "một chiều,
phải đạo, minh họa" đă có những cố
gắng thay đổi cách nh́n và cách nghiên cứu. Có thể
nói nếu không có chính sách Cởi trói văn hóa, đă không có
những công tŕnh nghiên cứu mới mẻ về nền
văn học Miền Nam trước thế kỷ XX. Hoàn
cảnh mới đă cho phép những phát hiện mới, mà
sau nhiều thập niên mù quáng v́ chiến tranh, có những
cái đă bị biến hủy nhưng cũng có những
nhận diện, cảm thông về những cái
tưởng đă chết hoặc yếu đi như tôn
giáo. Vả lại, tôn giáo đă trở nên nguồn sống
tâm linh của nhiều người, kể cả cán
bộ. Cuộc chiến chính thức tàn năm 1975,
những thất bại của chuyên chính từ 1975
đến 1986 đưa đến Cởi Trói như
một lối thoát dọ dẫm có cái hay là đă tạo
môi trường những cố gắng mới với quan
điểm mới hơn, dân tộc hơn, tổng
hợp hơn. Trong hoàn cảnh đó càng ngày càng có những
nghiên cứu trở về với truyền thống dân
tộc thật sự, đó là điều nên mừng.
Bước đầu khó khăn đă có người
đi, dĩ nhiên c̣n cần nhiều nghiên cứu sâu xa và
khách quan hơn nữa !
THAM-KHẢO :
-
Đỗ Quang Chính. Lịch Sử Chữ Quốc
Ngữ 1620-1659. Sài G̣n : Ra Khơi, 1972. 171 tr.
-
Nguyễn Khắc Xuyên. "Chữ quốc ngữ vào
năm 1838" Văn Lang số 4, 12-1992, tr. 117-124.
-
Thanh Lăng. 13 Năm Tranh Luận Văn Học (1932-1945).
3 tập. Tp HCM: NXB Văn Học, 1995. Nhờ bộ sưu
tập này mà người đọc có thể tham khảo
những bài báo đă đăng trên Hà Nội Báo, Ích
Hữu, Phụ Nữ Diễn Đàn, Ngày Nay, Tiễu
Thuyết Thứ Bảy liên hệ đến những
cuộc tranh luận thời đó về văn học,
ngữ học và cả chính trị, thời sự.
-
Về Sách Báo Của Tác Giả Công Giáo (Thế Kỷ
XVII-XIX). Tài Liệu Tham Khảo. Tp HCM: Trường
Đại học tổng hợp tp HCM. Khoa Ngữ Văn,
1993, 184 tr. Các tác giả : Nguyễn Văn Trung, Trần Thái
Đỉnh, Thanh Lăng, Vơ Long Tê, Nguyễn Nhă, Trần Thanh Đạm,
Phạm Đ́nh Khiêm, Đỗ Như Thắng, Cao Xuân
Hạo, Hoàng Châu Kỳ.
Chú thích :
(1)
Quách Thanh Tâm. "Suy nghĩ về các truyện Nôm khuyết
danh thế kỷ 18" Tr. 152-161 in 90 Năm Nghiên Cứu
Về Văn Hóa Và Lịch Sử Việt Nam / 90 ans de
recherches sur la culture et l'histoire du Việt Nam. Hà Nội :
NXB Xă Hội; École Française d'Extrême-Orient, 1995.
(2)
Tài liệu viết tay, 12 trang chữ nhỏ, khổ 20X29
cm. Phát hiện cũa linh mục Đỗ Quang Chính.
Sđd.
(3)
Sử-Kư Đại Nam Việt Quốc Triều,
Nhứt Là Doăn Tích Từ Hiếu Vũ Vương Cho
Đến Khi Vua Gia Long (Nguyễn Ánh) Đặng Trị
Lấy Cả Và Nước An Nam (Annales Annamites). Montréal:
Nghiên cứu Sử-đîa, 1986. xx + 106 trang.
(4)
Phan Khôi. "Chữ quốc ngữ ở Nam kỳ với
thế lực của phụ nữ" Phụ Nữ
Tân Văn số 28 (7-11-1929). Trích từ 13NTLVH. Sđd, t.
2, tr. 470.
(5)
Thăng Long tái bản, Sài G̣n, 1960, tr 36-37.
(6)
Trích lại từ bài Thanh Lăng. "Hồ Biểu Chánh".
Văn số 80 (15-4-1967), tr. 16.
(7)
Thanh Lăng. "Hồ Biểu Chánh". Văn số 80
(15-4-1967), tr. 16.
(8)
Nam Phong, số 16, Octobre 1918, tr. 199. Trích lại từ Thanh
Lăng "Thử thiết lập hồ sơ về hai
người con gái : một con của Phật, một con
của Chúa" in VSBCTGCG Sđd, tr.13.
(9)
VSBCTGCG. Sđd, tr 132.
(10)
Trích từ 13NTLVH Sđd, t 2, tr 473.
(11)
Ngoài ra trong di chúc viết ngày 28-11-1988, linh mục Thanh Lăng
đă xin lỗi các Giám mục và linh mục: "Tôi công khai
sám hối tất cả với t́nh anh em linh mục mà tôi vô
t́nh hay cố ư làm mất ḷng..." (VSBCTGCG, tr. 182).
(12)
VSBCTGCG, Sđd, tr. 6
(13)
Xem thêm Vũ Văn Kính. "Vài nét sơ lược về
chữ Nôm miền Nam", tr. 328-331 in 5 Năm Hán Nôm
1991-1995. TpHCM: Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm, 1995.
(14)
Trích từ 13NTLVH. Sđd, t. 2, tr. 100-118.
Nguyễn Vy-Khanh
6-1997