NGUYỄN VĂN VĨNH
(1882-1936)
VÀ NHỮNG
BƯỚC ĐẦU CỦA VĂN-HỌC CHỮ QUỐC-NGỮ
Nguyễn Vy Khanh
Nguyễn Văn Vĩnh là một nhà báo và
nhà văn lớn của miền Bắc, đă có những
đóng góp đáng kể cho nền văn hóa Việt Nam nói
chung và nền báo chí nói riêng những năm đầu
thế kỷ XX. Dù được đào tạo trong môi
trường Pháp và thân Pháp, ông đă tỏ ra có những
công tŕnh tích cực cho dân tộc. Ông học Trường
Thông ngôn, rồi làm thư-kư ở các Ṭa Công sứ Lào Cai,
Kiến An, Bắc Ninh cùng lúc làm cộng tác viên cho hai tờ
báo tiếng Pháp Courrier de Hai Phong và Tribune Indochinoise của
François-Henri Schneider và cuối cùng làm ở Ṭa Đốc-lư
Hà Nội. Năm 1906, ông được cử đi dự
hội chợ đấu xảo ở Marseille,
được dịp tiếp xúc với kỹ nghệ in
ấn và báo chí (thăm ṭa báo Revue de Paris, nhà xuất bản
Hachette và NXB Từ điển Larousse). Trở về
với quyết tâm truyền bá chữ quốc ngữ, ông
xin thôi việc công chức thuộc địa, mở nhà
in, làm chủ bút nhiều tờ báo và viết báo, dịch
thuật văn thơ.
* * *
Năm 1907, ông cùng với Dufour mở nhà in
đầu tiên ở Hà Nội và làm biên tập viên phần
chữ quốc-ngữ cho tờ Đăng
Cổ Tùng Báo (1907-1909) do Schneider sáng lập, tờ báo
đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ
tại miền Bắc (trong khi Nam-kỳ đă có nhiều
tờ báo chữ quốc-ngữ đă xuất hiện trong
suốt gần 40 năm trước đó : Gia Định Báo 1865, Phan Yên Báo 1868, Nam-Kỳ Địa Phận 1883, Nông Cổ Mín Đàn 1900, Lục Tỉnh Tân Văn 1907,... ). Đăng Cổ Tùng Báo vốn là ấn bản
tiếp tục tờ Đại-Nam
Đồng Văn Nhật Báo chữ Hán có từ năm
1892, được xem như công-báo và sống
được hơn 2 năm. Với Nguyễn Văn
Vĩnh, tờ Đăng Cổ Tùng Báo đă là bước
đầu của ông đóng góp trong việc phổ
biến tiếng Việt và mở đầu cho một
nền văn-học mới, rời bỏ
ảnh-hưởng Bắc-thuộc của chữ Hán. Trên
tờ này đă xuất hiện những bài viết tài hoa
và thực tế của ông kư dưới các bút hiệu Tân Nam
Tử, Đào Thị Loan.
Sau khi tờ Đăng
Cổ Tùng Báo đ́nh bản, Nguyễn Văn Vĩnh
đảm nhiệm hai tờ báo tiếng Pháp Notre Journal (19-10-1908), Notre Revue (1910) ngoài Bắc và
làm chủ bút tờ Lục
Tỉnh Tân Văn ở Sài-G̣n. Tờ Notre Journal làm cơ quan liên lạc cho viên chức Việt
Nam phục vụ trong guồng máy bảo-hộ
đồng thời giúp người Pháp hiểu biết
hơn về Việt Nam. Notre
Revue chỉ ra được 12 số.
Đăng
Cổ Tùng Báo đóng
cửa v́ lư do chính-trị th́ cũng v́ t́nh h́nh chính-trị
mà ngày 15-5-1913 người Pháp cho ra mắt tờ Đông-Dương tạp-chí
mà số đầu đă có bài viết 'Vụ một trái
phá' lên án người Việt Nam yêu nước đă
tổ chức vụ ám sát do Việt Nam Quang Phục
Hội tổ chức tại Hôtel Hanoi ngày 22-4-1913. Tờ Đông-Dương tạp-chí
lúc đầu được xem như là một phụ
bản của tờ Lục
Tỉnh Tân Văn trong Nam và cho đến số 85
(31-12-1914) tờ báo chủ yếu nhắm chính-trị và
thương mại. Từ số 86 (10-1-1915) đến
số 102 (31-12-1916) tạp-chí thiên về văn-học
nhiều hơn với những trang văn-học, với
những truyện dịch, biên khảo về
lịch-sử, giáo dục, phong tục, văn-hóa, v.v. và
đây là phần đóng góp tích cực cho văn-học
nước nhà. Vẫn François-Henri Schneider làm chủ
nhiệm, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. Cùng lúc
phụ trách chủ bút Đông-Dương tạp-chí,
Nguyễn Văn Vĩnh quản nhiệm thêm tờ Trung Bắc Tân Văn cũng
của Schneider. Năm 1919, Schneider rút lui v́ già yếu,
Nguyễn Văn Vĩnh toàn quyền quản lư, đă
biến thành nhật báo và mua lại nhà in. Năm 1919, Đông-Dương tạp-chí
trở thành Học Báo song
ngữ Pháp-Việt, bài soạn theo chương tŕnh của
Nha tiểu học Bắc-kỳ, mở đường cho
những tờ báo có tính sư phạm và luyện thi sau này.
Cùng năm này, với Emile Vayrac, Nguyễn Văn Vĩnh
mở ban tu-thư 'Âu-Tây Tư Tưởng/La pensée de
l’Occident' chuyên xuất bản các tác-phẩm Pháp dịch ra
Việt văn chủ yếu là của Nguyễn Văn
Vĩnh. Tờ Đông-Dương
tạp-chí và Học Báo qui
tụ được nhiều trí thức và khoa bảng
của Bắc-kỳ như Trần Trọng Kim, Nguyễn
Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá
Trạc, Tản Đà, Nguyễn Hữu Tiến, Thân
Trọng Huề, v.v. Dù
người Pháp lúc thành lập tờ Đông-Dương tạp-chí đă có mục
đích chính-trị nhưng vô t́nh tờ báo đă đi
những bước đầu đóng góp phổ biến
tư tưởng, học thuật Âu-tây và cổ truyền
Đông-phương, và đă tích cực truyền bá chữ
quốc-ngữ khiến sẽ được
sử-dụng rộng răi bởi các trí thức tân-học
cũng như cựu-học.
Tờ Trung
Bắc Tân Văn (1913-) từ 1919 biến thành nhật
báo 4 trang sống đến năm 1945, với phụ trang
Trung Bắc Chủ Nhật chuyên về văn-chương.
Các ông Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Bá Trạc chuyên về xă
luận, Nguyễn Đỗ Mục dịch
tiểu-thuyết Tàu và Nguyễn Văn Vĩnh bao sân
phần c̣n lại. Năm 1931, Nguyễn Văn Vĩnh cho ra
tờ L'Annam Nouveau
để làm cơ quan ngôn-luận đối đầu
với tờ Nam-Phong tạp-chí trong cuộc tranh luận
chính-trị với Phạm Quỳnh 'Chế độ
trực trị và chế độ quân chủ lập
hiến'. Nguyễn Văn Vĩnh tư tưởng duy tân cấp
tiến đă đề ra chủ thuyết trực
trị, trái ngược với chủ trương quân
chủ lập hiến của Phạm Quỳnh, chủ
trương sau này sẽ
đưa họ Phạm vào Huế làm thượng
thư.
Thật vậy, Nguyễn Văn Vĩnh c̣n
là một nhà chính-trị. Ông là người luôn lên tiếng
phản đối chính sách hà khắc của Pháp
đối với thuộc địa, là người
Việt Nam đầu tiên và duy nhất đă hai lần
từ chối huân chương Bắc đẩu bội
tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và cũng là
người đă cùng với bốn người Pháp
viết đơn gửi chính quyền đông Dương
phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu
Trinh. Ông c̣n là người Việt Nam đầu tiên gia
nhập hội Nhân quyền Pháp năm 1907, cũng là năm
ông dạy ở Đông-Kinh Nghĩa Thục (Nguyễn
Văn Vĩnh là người thảo điều lệ và
viết đơn xin thành lập, đồng thời là
giáo sư dạy tiếng Pháp, dạy viết văn và diễn
thuyết), sau đó ông c̣n đắc cử vào Hội
đồng Tư-vấn Bắc-kỳ. V́ thế cuối
cùng chính quyền thuộc địa của Pháp ở
Đông-Dương đă bỏ rơi ông.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy vậy đă
không thể kiếm sống bằng nghề báo của ḿnh.
Ṭa báo và nhà in của ông vỡ nợ. Gia sản của ông
bị tịch biên. Ông bỏ đi đào vàng ở Lào và
mất ở đó ngày 1-5-1936 v́ sốt rét, trong con
thuyền độc mộc trên ḍng sông Sêpôn, một tay
vẫn nắm chặt cây bút c̣n tay kia là tập giấy
đang viết dở phóng sự "Một tháng với
những người đi t́m vàng". Báo giới miền
Bắc bấy giờ đă phong tặng ông danh hiệu
“Thủy Tổ Nhà Báo Bắc Kỳ”.
* * *
Văn viết của Nguyễn Văn
Vĩnh giản dị, b́nh thường, có tính phổ thông,
đại chúng, hay dùng thành ngữ và tục ngữ dân gian
Việt Nam, tỏ ra ít ảnh-hưởng văn biền
ngẫu và dùng điển tích Hán văn, và cú pháp gọn
gàng, sáng sủa theo tiếng Pháp. Tự nhận ḿnh là
"Người Man di hiện đại", nhà báo
Nguyễn Văn Vĩnh đă có những cách nh́n mới trong
những vấn đề lớn-nhỏ của
đời sống xă hội, chính-trị cũng như
văn-hóa. Phẩm chất "Tân Nam tử" của ông
tỏ rơ cả trong việc mở chuyên mục
"Nhời đàn bà" trên tờ Đăng Cổ Tùng Báo, tờ báo tiếng
Việt đầu tiên ở Bắc kỳ và lấy bút
hiệu Đào Thị Loan.
Sự cố gắng kiên tŕ của
Nguyễn Văn Vĩnh đă góp phần rất quan
trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn
hoá phương Tây trong dân Việt, và cổ vơ việc dùng
tiếng Việt để viết báo, viết văn.
Nguyễn Văn Vĩnh là một nhà báo đa dạng :
viết tin tức, xă luận, làm thơ, khảo cứu, và
dịch tiểu thuyết, kịch và cả phóng sự
("Từ triều đ́nh Huế trở về" và "Một tháng với
những người đi t́m vàng" đăng trên
tờ L'Annam nouveau). Ở
bất cứ lănh vực nào ông cũng đều chứng
tỏ tầm nh́n xa, tŕnh độ học thức cao
rộng và nét sắc sảo như các bài viết nghị
luận của ông dù tương đối ngắn
nhưng nội dung phong phú đề cập đến
đủ mọi vấn đề.
Một số thơ dịch của
Nguyễn Văn Vĩnh rất cách tân về h́nh thức, có
thể đă là nguồn gốc của Thơ Mới sau
này. Trên Đông-Dương
tạp-chí số 40 (1913), Nguyễn Văn Vĩnh đă
dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine, dịch giả
đă cẩn thận báo ông dịch theo lối gieo vận
của Pháp:
"Ve sầu kêu ve ve,
Suốt
mùa hè.
Đến
kỳ gió bấc thổi,
Nguồn
cơn thật bối-rối.
Một
miếng cũng chẳng c̣n,
Ruồi
bọ không một con.
Vác
miệng chịu khúm-núm
Sang
chị Kiến hàng-xóm,
Xin
cùng chị cho vay,
Giăm
ba hạt qua ngày.
-
Từ nay sang tháng hạ,
Em
lại xin đem trả.
Trước
thu, thề Đất Trời!
Xin
đủ cả vốn lời.
Tính
Kiến ghét vay cậy;
Thói
ấy chẳng hề chị
-
Nắng ráo chú làm ǵ?
Kiến
hỏi Ve như vậy.
Ve
rằng:
-
Luôn đêm ngày,
Tôi
hát, thiệt ǵ bác.
Kiến
rằng:
-
Xưa chú hát!
Nay
thử múa coi đây.
(Đông Dương Tạp Chí, 1914)"
Thơ có vần ôm và số chữ đă
thoát qui luật thơ Đường, đă
được xem như là một cách mạng về h́nh
thức, gần 20 năm trước khi xuất hiện
bài T́nh Già của Phan Khôi.
Nguyễn Văn Vĩnh đă lập ra
Hội dịch sách "để dịch ra tiếng
bản-quốc các sách hay của Đại pháp và của nước Tầu….
chúng tôi tin rằng: sự dịch sách có ích lợi cho dân ta
lắm..." (Đăng
Cổ Tùng Báo, 810, 25–7–1907).
Ông c̣n là dịch giả tiên phong. Lúc đầu ông
thường dịch các tác phẩm học thuật tư
tưởng của các bậc danh sĩ nổi tiếng
nước Pháp như Pascal. Về sau, ông dịch thơ,
tiểu thuyết và hài kịch như thơ ngụ ngôn La
Fontaine, truyện cổ tích Perrault (Truyện Trẻ Con), hài
kịch của Molière (Trưởng Giả Học Làm Sang,
Người Biển Lận, Giả Đạo Đức,
Bệnh Tưởng), tiểu-thuyết của Emile Vayrac,
của Balzac (Miếng Da Lừa), Victor Hugo (Những kẻ
khốn nạn), Alexandre Dumas (Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ),
Mai Nương Lệ Cốt của Abbé Prévost, Tê-Lê-Mác Phiêu
Lưu Kư của Fénélon, Qui-li-ve Du Kư của J. Swift, v.v.
từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và cả chữ Hán, chữ Nôm, và dịch Nôm ra
Pháp. Ông là người Việt-Nam đầu tiên dịch
Truyện Kiều sang tiếng Pháp (trước ông đă có
bản dịch của Abel del
Michels - Kim Vân Kiều Tân Truyện xuất-bản năm
1884); đăng trên Đông-Dương tạp-chí
trước khi in thành sách. Bản dịch của Nguyễn
Văn Vĩnh khá đặc biệt v́ ngoài việc dịch
cả câu, ông c̣n dịch nghĩa từng chữ và chú thích
rơ các điển-tích liên hệ.
Các tác-phẩm dịch thuật của
Nguyễn Văn Vĩnh đă giúp cho người dân
Việt Nam tiếp xúc với những tư tưởng
mới, hay, của Tây phương (Luận Lư Học,
Triết Học Yếu Lược, Chuyện Các Bậc
Danh Nhân Hy Lạp) và cả biết đến những nét
đặc sắc của văn hóa của chính dân tộc
và của á-đông. Về điểm này, ông đă là
một trong những người đầu tiên bắc
chiếc cầu nối giữa hai nền văn hóa
Đông-Tây. Văn học dịch thuật đă đóng một
vai tṛ quan trọng và lót đường trong quá tŕnh
hiện đại hóa văn-học Việt Nam giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Thật
vậy, phong trào dịch truyện Tàu mạnh lên từ
khoảng năm 1904 với đóng góp của các truyện
dịch Chinh Đông Chinh Tây, Thuyết Đường, Phong
Thần, các truyện vơ hiệp, ở Bắc th́ có Tam
Quốc Chí là tiểu thuyết dịch đầu tiên
bằng chữ quốc ngữ xuất bản ở Hà
Nội (Phan Kế Bính, 1907), rồi những Đông Chu
Liệt Quốc, Tây Sương Kư của Nguyễn
Đỗ Mục đăng trên Đông Dương tạp
chí và Trung Bắc Tân-văn, các bản dịch và phiên âm
truyện Hán Nôm của ta như Vũ Trung Tùy Bút, Lĩnh Nam
Chích Quái, Truyền Kỳ Mạn Lục, Việt Lam Xuân Thu.
Các dịch giả khác đă diễn dịch tác phẩm tiếng
Pháp ra chữ quốc ngữ: Trương Minh Kư là
người đi tiên phong với Truyện Phan Sa Diễn
Ra Quốc Ngữ (1884) gồm truyện và thơ ngụ
ngôn La Fontaine; Tê-Lê-Mác Phiêu Lưu Kư,... Trần Chánh Chiếu
kư Kỳ Lân Các dịch Tiền Căn Báo Hầu (Le Comte de
Monte-Cristo của Alexandre Dumas, đăng Lục-Tỉnh Tân-Văn. Ở ngoài Bắc,
những tác phẩm dịch đầu tiên là của
Nguyễn Văn Vĩnh và xuất hiện trên Đông Dương tạp chí;
tuy nhiên, với Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp-chí th́ sự tiếp nhận văn
học Pháp mới trở thành thực sự và có ư
hướng, đường lối rơ ràng, nhất là
về thể-loại tiểu-thuyết.
Trước Phạm Quỳnh th́ đă có
Nguyễn Văn Vĩnh nhưng các nhà văn-học sử
thường không đánh giá đúng mức công tŕnh của
những người đi những bước tiền
phong như ông. Nguyễn Văn Vĩnh không là người
có công khai sáng chữ quốc ngữ nhưng là người
đă cổ vơ cho chữ quốc-ngữ và đóng góp
rất lớn cho việc thành lập nền văn-học
mới. Các tờ Đông-Dương
tạp-chí, Học Báo, Trung Bắc Tân Văn đă thu hút
được nhiều trí thức, nhà giáo và nhà văn và đă tạo ra
được một phong trào theo đuổi làm mạnh
nền văn-học chữ quốc-ngữ từ phôi thai
đến vững mạnh, tự tin. Đầu thế
kỷ XX, khi tờ Gia-Định Báo ra những số chót
th́ Nho giáo và văn học Hán-Nôm đă bắt đầu tàn
tạ : Chu Mạnh Trinh mất năm 1905, Trần Tế
Xương mất 1906 và Nguyễn Khuyến mất năm
1909,... đă là những đại diện cuối cùng.
Văn học chữ quốc ngữ mở một chân
trời mới mà những bước tiền phong, vận
động, đă khởi đầu từ miền Nam 35
năm trước đó. Đến khi hai đất
"ngàn năm văn vật" và thần kinh gia nhập
ḍng quốc ngữ, Việt Nam đă tiến đến
một nền văn học mới ngày càng trưởng
thành, vững vàng, với nhiều hiện tượng và biến
cố hơn cả những thế kỷ văn học
chữ Hán-Nôm trước đó. Việt Nam bị thực
dân Pháp đô hộ, ảnh hưởng Pháp ngày càng mạnh
và ảnh hưởng Hoa Hán ngày càng xa dần.
Với chính sách thuộc địa buộc
học chữ quốc ngữ này, nếu lúc đầu
đă có những người trốn tránh hoặc thuê
mướn người đi học thế th́ từ nay
chữ quốc ngữ đă phổ cập hơn, th́
đến đầu thế kỷ XX, chính người
Việt dùng chữ quốc ngữ để phổ
biến văn chương, văn hóa Việt Nam để
giáo dục, mở mang dân trí để canh tân theo thời
đại và thế giới. Và phổ biến một cách
tích cực cho văn học dân tộc. Nhờ đó mà
tác-phẩm thơ văn chữ Nôm được quốc
ngữ hóa: truyện Kiều, Lục Vân Tiên, truyện Hoa
Tiên, Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca,... từ 1903
đến 1912. Những công tŕnh này là một đóng góp
rất đáng kể, khiến người miền
đất bị ngoại bang cai trị vẫn gần
với kho tàng văn hóa dân tộc. Vừa bảo tồn
văn hóa chung, các nhà văn hóa này c̣n giúp canh tân đất
nước qua phương tiện tân thời của
chữ quốc ngữ và các tác phẩm dịch thuật làm
nhịp cầu đến gần với văn hóa và tư
tưởng nhân loại. Dĩ nhiên ở giai đoạn đầu,
các sách dịnh thuật đă chiếm phần quan
trọng, nhất là về phần tiểu thuyết,
truyện Tàu. Từ năm 1901 đến 1932, 30 dịch
giả khác nhau trong Nam đă xuất bản 70 bộ
truyện Tàu. Năm 1907, truyện Tam Quốc Chí do Phan
Kế Bính dịch được xuất bản ở Hà
Nội, đă được Phạm Thế Ngũ xem là
"cuốn sách đầu tiên của văn học
quốc ngữ", thật ra chỉ đúng cho miền
Bắc v́ chính cuốn Chuyện Đời Xưa của
Trương Vĩnh Kư in năm 1866 mới là ấn phẩm
văn xuôi đầu tiên 74 trang bằng chữ quốc
ngữ được xuất bản! Giai đoạn
văn học phôi thai này cũng đă có những tác
phẩm nghị luận thời sự hoặc lư luận:
lời sắc bén mà nội dung yêu nước cũng
quyến rủ không kém, nhắm cổ động ḷng yêu
nước và chống thực dân. Hăy đọc đôi ḍng
trích từ Văn Minh Tân
Học Sách (1906), một tác phẩm vô danh xuất phát từ
phong trào "nghĩa thục": "Trầm ngâm suy
nghĩ cho cùng, để t́m kế mở mang dân trí giữa
muôn ngh́n khó khăn, th́ ta thấy có sáu đường:
một là dùng văn tự nước nhà ...".
Từ năm 1913, người Pháp chuyển
nền cai trị thực dân ra Hà Nội, lập phủ
Toàn quyền, hội Khai Trí Tiến Đức (1919) mà
Phạm Quỳnh là tổng thư kư, trường Viễn
Đông Bác Cổ (EFEO) và viện đại học, v́
người Pháp đă hiểu người Nam-kỳ tuy
học tiếng Pháp và có vẻ chịu đồng hóa
nhưng trong thực tế người Nam-kỳ rất
thủ cựu dân tộc chủ nghĩa và có thể hết
c̣n những người trí thức và tai mắt dễ thao
túng như những Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm
Quỳnh, v.v. Nguyễn Văn Vĩnh là hội viên năng
động của hai học hội Trí Tri, và Khai Trí
Tiến Đức. Người Pháp cho ra Đông Dương tạp-chí (15-5-1913-) rồi Nam-Phong tạp-chí (1-7-1917
đến 12-1934). Từ khi chế độ khoa cử
lịch triều bị băi bỏ năm 1915 ở Bắc và
1919 ở Trung, giới Nho học bị giao động
lớn. Chữ quốc ngữ và chế độ cai
trị thực dân thắng thế. Lúc đầu chế
độ thực dân ép dùng chữ quốc ngữ
để dễ đồng hóa dân ta bằng ngôn ngữ,
bỏ thi chữ Hán cũng với thâm ư bóp nghẹt tư
tưởng cần vương phục quốc trong
giới sĩ phu mà lúc bấy giờ phương cách
Văn thân cũng đă lỗi thời. Về giáo dục,
người Pháp ra nghị định bắt dùng tiếng
Pháp làm chuyển ngữ, tiếng Việt trở thành
phụ, nhưng những phong trào Minh tân, Duy tân, Đông Kinh
nghĩa-thục hổ trợ, vận động cho
chữ quốc ngữ đồng thời gây ḷng yêu
nước, ảnh hưởng sâu đậm trong quốc
dân và giới trí thức khiến thực dân phải
cấm đoán. Những bậc sĩ phu này chỉ thu
nhận những cái hay của người và liên tục
nhiều thế hệ t́m cách cứu quốc và kiến
quốc. Họ chủ trương dùng "giáo dục
quần chúng để canh tân xứ sở" khiến
thực dân Pháp bị "gậy ông đập lưng
ông" bèn đóng cửa nghĩa-thục và bắt tù
đày các nhà giáo! Nếu ở miền Nam từ 1865,
những người cộng tác với Pháp có đầu óc
khai-phóng, thức thời, đă lợi dụng để
đặt nền móng cho "văn học chữ quốc
ngữ", th́ ở ngoài Bắc, người Pháp đă
dùng báo chí Đông-Dương
tạp chí, Nam-Phong tạp-chí để thực thi
"sứ mạng khai-hóa" mà toàn quyền Albert Sarraut
đă rêu rao - nhưng trong thực tế, ông ta biết
ảnh hưởng văn hóa Trung-Hoa qua tân-thư,
tân-văn nguy hiểm không thua ǵ hiểm nguy nước
Đức, ông ta muốn trí thức Việt Nam chỉ
hướng về Pháp như cứu rỗi duy
nhất! Từ đây ảnh
hưởng của thực dân Pháp mới thật sự
xâm nhập vào nếp sống và văn chương Việt
Nam! Chính sách "tầm thực" và "chia để
trị" cũng bắt đầu gặp đất
dụng vơ! Nguyễn Văn Vĩnh khởi xướng
tổng hợp Đông tây với chiêu bài "Pháp Việt
đề huề", phỏng dịch văn chương
Pháp ra tiếng Việt và Việt ra tiếng Pháp như Kim
Vân Kiều, để lại câu bất hủ
"Nước ta sau này hay dở là nhờ ở chữ
quốc ngữ" (Lời tựa của cuốn
Truyện Kiều). Phạm Quỳnh tiếp nối con
đường của Nguyễn Văn Vĩnh, chủ
trương dung ḥa Đông-Tây, thu nhận hết của Tây
phương về khoa học kỹ thuật, phương
pháp, về tổ chức và cả triết lư, nhưng
được cái ông nghĩ "hồn Việt Nam" th́
riêng tư và nền giáo dục mới sẽ đào tạo
người trẻ hướng về Tây phương. Cái
nguy cho việc tồn vong dân tộc là mất cái hồn
Việt Nam đó. Do đó ông chủ trương
đồng thời bảo tồn cổ học và quốc
túy. Sau nhiều năm chống Pháp bằng vũ khí,
lập chiến khu như Hoàng Hoa Thám, bằng văn hóa
như Đông Kinh Nghĩa Thục, ... không thành công, Phạm
Quỳnh quan niệm : "Vận mệnh nước Nam là
liền với nước Pháp" và chủ nghĩa
quốc gia của ông trước nhất là bảo tồn
tiếng Việt một cách đơn giản :
"Truyện Kiều c̣n tiếng ta c̣n, tiếng ta c̣n
nước ta c̣n".
Nguyễn Văn Vĩnh và nhóm Đông
Dương tạp chí đă sớm nhận thấy ở
chữ Quốc ngữ là một thứ vũ khí lợi
hại cần thiết cho dân tộc ta trong sự
nghiệp phục hưng nước nhà. Trong bài "Người
An-nam nên viết chữ An-nam" trên Đăng
Cổ Tùng Báo số ra mắt ngày 28/3/1907, có thể xem là bài báo tiếng
Việt đầu tiên của ông, Nguyễn Văn Vĩnh
đă cổ vơ việc dùng chữ quốc-ngữ:
“Nước Nam xưa nay vẫn có tiếng
nói, mà tiếng An-nam lại hay được một điều
là cả nước nói có một thứ tiếng, chữ
Mán, Mọi ở nơi rừng rú không kể.
Nhưng vốn chỉ có một tiếng
nói, không có chữ viết; đến khi học chữ
tầu, rồi mới lấy chữ tầu ghép ra thành
một lối tiếng, gọi là chữ nôm. Chữ nôm tuy
viết quấy quá cũng thành ra dạng chữ, nhưng
không có mẹo mực ǵ, ai muốn viết thế nào th́
viết, thường phải cao đoán mới đọc
được thông. Vả, vốn trước khi có chữ
nho, th́ nước ḿnh văn-chương không có, hóa cho nên
vẫn gọi chữ mới ấy là nôm na, người
nào có tài thường không thèm dùng đến. Học hành,
luận lư, vẫn phải dùng chữ tầu; luật phép
trong nước, giấy má việc quan đều dùnh
chữ tầu cả. Ai không biết chữ tầu nghe
như vịt nghe xấm. Một người chỉ
học được một ḿnh mà thôi.
Và học được thông chữ nho th́
thật là khó lắm : chữ là như dấu bịa
đặt ra để viết ư nghĩ người ta, mà
từ xưa nay An-nam bao nhiêu người học chữ
nho, dễ hồ đă mấy người, bụng nghĩ
thế nào lại viết ngay ra được thành chữ
như thế? Thế ra chỉ học để ngâm-nga mà
thôi. Nói cho phải, th́ là chỉ học để đi thi
đỗ làm quan là măn nguyện.
Than ôi! Tiếc thay! Khi nước ta mới
trông thấy chữ tầu, cả nước chẳng ai
có tài mà bắt chước đặt ra chữ ḿnh theo
như tiếng nói : lại phải làm ngay sự dản
tiện : mượn chữ người làm chữ nhà. Rơ
ra lối làm biến (sic) chỉ đợi người làm
sẵn mà dùng!
Thôi cũng may! Bây giờ nhờ có
người phương tây đến, bầy ra chữ
quốc ngữ, chắp vần theo như chữ các
nước Phương Tây; có mẹo mực, ba là ba,
bốn là bốn, không thể sai được mà học
dễ biết là bao nhiêu! Sáng ư th́ chỉ vài ngày, ngu
đần th́ trong một tháng cũng phải thông.
Chữ quốc-ngữ có đă non một
thế kỷ mà vẫn ít dùng, v́ văn-chương từ
trát, vẫn cứ theo lệ cổ dùng chữ nho (. ..) Nay
ở Chương-tŕnh Tân-học, nhà-nước đă
định ai cũng phải học chữ
quốc-ngữ, thế là một cái ơn to nhà-nước
làm cho nước Nam đấy. Chữ nho hay, cũng nên
học, nhưng trước hết phải thông chữ
nhà. C̣n chữ người học thêm cho rộng, như
thể người Âu-châu, học phụ thêm chữ
Hi-lạp, chữ Latin.
Ông nào có tài, làm sách, làm chuyện hay bây
giờ, nên làm bằng chữ quốc-ngữ. Có nhiều
sách hay tất tiếng nôm cũng hóa ra hay. Ngẫm mà xem!
Thơ phú đời sau dùng điển Thúy-Kiều, Nhị
độ-Mai, hay là điển trong các sách hay khác, sắp
làm ra, kém chi sâu-sắc bằng điển lấy trong
Tứ-thư, Ngũ-kinh ".
Nguyễn Văn Vĩnh lại đưa
vấn đề này lên báo Đông-Dương
tạp-chí năm1913: "Bản
quán định đem hết những bài luận hay về
các công nghệ, về việc buôn bán, dịch ra quốc
văn cho người Annam được tận
hưởng". Trên số 2 của cùng tạp chí, ông
đă cổ động người Việt Nam học
chữ Quốc ngữ để thay thế chữ Hán và
chữ Nôm:
"Mở
ngay tờ nhật báo này ra mà ngẫm xem bấy nhiêu
điều luận trong báo, thử nghĩ: giá thử
luận bằng chữ Nho th́ có mấy người
đọc được, mà trong những người
đọc được, th́ có mấy người
hiểu cho hết nghĩa. Thế mà chữ Quốc
ngữ, th́ không những là người biết chữ
Quốc ngữ đọc được, hiểu
được, một người đọc cả nhà
nghe cùng hiểu được, từ đàn ông cho
đến các bà (không dám nói đàn bà sợ các bà quở)
trẻ con cũng nghe được mà chỉ với chúng
ta trong cuộc luận bàn thế sự th́ có phải nó vui
việc ra là bao nhiêu".
Rồi
trên Đông-Dương Tạp Chí số 40, trong bài “
Tiếng Annam “ một lần nữa Nguyễn Văn
Vĩnh đă cổ động kêu gọi xây dựng
một nền tảng quốc văn học thuật
mới, với căn bản chữ quốc ngữ
được xem là chữ viết của tương lai
:
“...
Nay muốn cho văn tự nước Nam có kinh
điển th́ bao nhiêu những bậc tài hoa, những
người có học thức trong nước phải
chuyên về nghề văn quốc ngữ. Các bậc
danh nho th́ nên bỏ quách cái tài ngâm hộ cho người
đi, chỉ học cho biết để mà nhân cái hay
của người làm cái hay của ḿnh mà thôi. Các
bậc có Pháp học th́ tuy rằng cái ngoại tài ấy
phải chuyên làm cách tranh cạnh, làm mồi kiếm ăn,
nhưng nếu muốn nhân việc lập thân mà lại có
ích cho đồng bào ḿnh th́ phàm luyện được chúc
tài nào của người th́ cũng nên dùng quốc văn
mà phát đạt nó ra cho cả người đồng bang
được hưởng.
Nào báo
quốc ngữ, nào sách học quốc ngữ, nào thơ
quốc ngữ, văn chương quốc ngữ, án kư
hành tŕnh, tiểu thuyết nghị luận, tờ bồi
việc quan, đơn từ kiện tụng, nên làm toàn
bằng văn chữ quốc ngữ hết cả.
Cả đến những cách cao hứng vịnh
đề, t́nh hay cảnh đẹp, câu đối dán nhà,
tứ b́nh treo vách, câu phúng bà con, lời mừng bạn
hữu, đều nên dùng quốc văn hết thảy, mà
cốt nhất là phải tập lấy lối văn xuôi,
diễn dịch như in lời nói cho rơ ràng, cho nhất
định, phải khiến cho lời văn chương
theo lời mẹ ru con, vú ấp trẻ, lời anh nói
với em, vợ nói với chồng chớ đừng
để cho văn chương thành ra một cách nói
lối, mà tiếng nói vẫn cho là nôm na. Văn chương
phải như ảnh tiếng nói và tiếng nói phải
nhờ văn chương hay mà rơ thêm, đủ thêm ra.
Lại
c̣n một điều khẩn yếu nửa ra muốn cho
văn quốc ngữ thành văn chương hay khỏi
thành một tiếng nôm na mách qué, th́ cách đặt câu, cách
viết, cách chấm câu phải dần dần cho có lệ
có phép, mà lệ phép th́ phải theo ư nhiều người
đă thuận, chớ đừng ai tự đắc
lối của ḿnh đem ư riêng ra sửa đổi thói
quen”.
Ngoài việc cổ vơ
việc dùng chữ quốc-ngữ, khi có dịp là
Nguyễn Văn Vĩnh tấn công thứ
văn-chương lệ thuộc chữ Hán, như khi bàn
về cái hay của văn
chương bằng chữ Hán, ông đă cho đó là cái “hay
vô dụng” : “bất quá câu văn thú, chỉ
đến rung đùi là cùng, chớ chẳng động
được ḷng ai, v́ người đọc biết
hay, mà người nghe như vịt nghe sấm vậy” (ĐDTC số 9).
Khi kết luận về Nguyễn Văn Vĩnh và nhóm Đông
Dương Tạp Chí, Vũ Ngọc Phan trong bộ Nhà
Văn Hiện Đại đă viết như sau : “Nguyễn Văn Vĩnh là
một người rất có công với quốc văn ...
là v́ ông đă đứng chủ trương một cơ
quan văn học vào buổi mà đối với văn
chương, mọi người c̣n bỡ ngỡ. Ông
lại hội họp được những cây bút có
tiếng, gây nên được phong-trào yêu mến quốc
văn trong đám thanh niên trí thức đương
thời ... (về
Đông-Dương Tạp-Chí) Người Tây học có
thể thấy trong đó những tinh-hoa của nền
cổ-học Trung-Hoa mà nước ta đă chịu
ảnh-hưởng tự lâu đời; người Hán
học có thể thấy trong đó những tư
tưởng mới của Tây phương là những
tư tưởng mà người Việt-Nam ta cần
phải biết rơ để mà thâu thái. Những bài b́nh
luận, những bài tham-khảo về Đông-phương
và về Tây-phương đăng liên tiếp trong Đông-Dương
Tạp-Chí, ngày nay giở đến, người ta vẫn
c̣n thấy là những bài có thể dựng thành những
bộ sách biên tập rất vững vàng và có thể giúp ích
cho nền văn học Việt-Nam hiện đại và
tương-lai “ (Bản Thăng Long Sài-G̣n 1961, Tập I, tr.
169).
* * *
Sau hơn ngàn năm (bốn lần)
Bắc-thuộc, nước Việt Nam đă ch́m
đắm trong văn-hóa Bắc-thuộc, từ tổ
chức chính trị, luật pháp, xă hội đến ngôn-ngữ
và sinh hoạt văn-học nghệ-thuật. Hăy gọi
giai đoạn này là Bắc-thuộc để phân biệt
với thực dân Pháp, dù cả hai đều là thực-dân
với mục đích 'cao đẹp' là 'khai hóa' (hay
'bảo hộ') toàn là mỹ từ nhưng thực ra
họ đều muốn làm chủ, thống trị và chi
phối quốc-gia thua kém. Mỗi thực dân (Trung-Hoa, Pháp)
có những mưu đồ khác nhau do nguồn xuất phát
địa lư và văn-hóa. Người Hán (rồi Hoa) và Pháp
cuối cùng đều rút quân đội và guồng máy cai
trị khỏi Việt Nam nhưng thực-dân văn-hóa
vẫn ở lại qua nhiều h́nh thức và quá sâu
đậm khiến nay thế kỷ XXI đă là thời
của hiện đại Âu-Mỹ (với những h́nh
thức thực-dân mới !) mà phần lớn trí thức
và sĩ phu vẫn không thoát-ly được và hơn
nữa, vẫn thần phục và 'cơng rắn cắn gà nhà'
(biên giới Lạng Sơn và các đảo Hoàng Sa!). Dưới
thời Bắc-thuộc, đă có những nỗ lực
vươn lên chứng tỏ thực lực dân tộc
với những Nguyễn Trăi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Cao Bá Quát, v.v. nhưng vẫn chưa
vượt thoát được sự lệ thuộc
Bắc-thuộc đó, qua ngôn-ngữ sử-dụng,
điển tích, tứ, ư và thể-loại văn thơ,
v.v. Ngay từ đầu thời thuộc địa
Cochinchine, ở miền Nam lục-tỉnh đă có những
nỗ lực canh tân, hiện đại hóa đất
nước. Khác với thời 'văn-hóa chung' Nho giáo (và
Phật giáo) trước đó, văn-hóa (và phó sán
văn-học, văn minh vật chất, ..) nay khác hẳn,
như là một đoạn tuyệt với thế
giới cũ lịch-triều. Như vậy có thể xem
những nhà văn hóa tiên phong này đă mở một kỷ
nguyên Hậu Bắc-thuộc, nhưng không phải dễ v́
ảnh-hưởng Bắc-thuộc hăy c̣n quá nặng và có
thể xem như xă hội Việt Nam khi người Pháp
đến, đă là một chư hầu về văn-hóa
của Trung quốc hay nói cách khác, Ta và Người đă
nhập làm một. Nhiều nhà văn đă sử dụng
chữ quốc ngữ và phương tiện
tiểu-thuyết, thể-loại của Âu-tây để
tiếp tục một thứ văn-hóa Bắc thuộc
nhưng cũng có những nhà văn như Hồ
Biểu-Chánh tiến xa hơn, làm một tổng hợp
văn-hóa (syncrétisme) qua tác-phẩm của ḿnh, có thể xem
như là một nỗ lực vươn ra ngoài khuôn
khổ văn-hóa Tây thuộc? Sĩ phu và trí thức
Việt-Nam khi mở trường Đông-kinh nghĩa
thục và khơi động các phong trào Duy tân đầu
thế kỷ XX, một trong những mục đích hàng
đầu là về văn hóa, là làm sao hiện đại
hóa đất nước song hành và hỗ trợ công
cuộc chống thực dân Pháp. Đối mặt với
sự xâm nhập và bành trướng của chủ
nghĩa thực dân, tân thư và giáo dục đă
được đề cao đúng mức, chữ
quốc ngữ đă được sử dụng như
một phương tiện để hiện đại
hóa đất nước. Nhưng tư tưởng
nền tảng vẫn là chống đuổi thực dân,
muốn một Hậu Tây-thuộc dân chủ, hiện
đại. Từ đầu thế kỷ XX, Phan
Bội-Châu, Trần Chánh Chiếu và các sĩ phu Duy tân,
Đông-du (sau những Trương Vĩnh Kư, Nguyễn
Trường Tộ, v.v. của thế kỷ trước)
đă thất vọng về những cái gọi là
'truyền thống', là ảnh-hưởng Nho học
đều là những tàn tích Bắc-thuộc, do đó
đă nỗ lực hiện-đại, Âu-hóa đất
nước và con người qua Tân thư và con
đường Nhật-bản, nhờ v́ ư thức dân
tộc ngày càng rơ với giới sĩ phu. Nguyễn Văn
Vĩnh là một trong những bậc sĩ phu đó!
Mặt khác, ngôn-ngữ (Hán, Anh, Pháp, v.v.)
đă là phương tiện của quyền lực
của các đế quốc, thực dân đặt lên
đầu lên cổ dân thuộc-địa hay bị
trị. Do đó các dân tộc cựu thuộc địa
phải biết tận dụng ngôn-ngữ của
đế quốc (và tiếng Anh của đế quốc
Internet) để hội nhập/đáp ứng với
điều kiện của quốc-gia ḿnh và để
kiến dựng một nền văn-học quốc-gia
độc lập như Hoa-kỳ, Úc, Gia-nă-đại,
Ấn, ... đă làm. Phóng tác, phỏng dịch, dịch thuật
nói chung là một nghệ thuật, một công tŕnh
văn-hóa. Dịch khởi từ văn-hóa, của cả
hai văn-hóa - gốc và dịch. Dù sao th́ các nền
văn-hóa đều mang tính lai căng v́ từng nhận
chịu nhiều ảnh-hưởng, đồng hóa, trao
đổi, do đó cần một chuyển đổi liên
tục mới lột trần được t́nh cảm và
phụ thuộc văn-hóa. Từ đó dễ hiểu tính
tổng hợp và pha trộn (syncrétisme) mà các nền văn
hóa đều có.
Chữ quốc-ngữ đă tác động
đến tư duy và ảnh hưởng lên đời
sống văn hóa! Chữ quốc-ngữ, một trớ
trêu của lịch sử, đă là phương tiện
để phát triển văn hóa, khai mở một nền
văn học mới, mà c̣n chứng tỏ là khí-cụ
thống-nhất ngôn ngữ và văn tự, từ ải
Bắc đến mũi cực Nam. Sự h́nh thành và
sự sử-dụng của chữ quốc-ngữ như
là ngôn-ngữ hành chánh đă trở thành văn tự
của Việt Nam và đă đóng vai tṛ quan trọng trong
việc h́nh thành một nền văn-học mới từ
nửa cuối thế kỷ XIX bắt đầu từ
miền Nam. Đây là điểm quan trọng v́ trước
đó Việt Nam ta qua bao thế kỷ đă không thoát
được t́nh trạng Bắc thuộc về
văn-hóa và không có một văn tự riêng có tính quốc
gia và phổ quát - v́ ngay cả chữ Nôm cũng chỉ có
một thiểu số sử-dụng được và
cũng không là một văn tự thống nhất. Trong
khi đó, nước Nhật và các quốc-gia Âu-tây xuất
phát từ chữ la-tinh đă h́nh thành được
văn tự riêng và từ đó bước những
bước nhảy vọt. Hăy thử tưởng
tượng nếu không có chữ quốc-ngữ th́
Việt Nam ta đang ở đâu?
Nguyễn
Vy Khanh (27-2-2009)