ĐỌC "KHÓI SÓNG TRÊN SÔNG" CỦA
NGUYỄN VĂN SÂM
Nguyễn Vy-Khanh
T́m hiểu hành tŕnh văn nghệ
của một số nhà văn thế kỷ XX, chúng tôi
thích thú khám phá Nguyễn Tuân, Xuân Diệu viết phê b́nh văn
học đặc sắc không thua ǵ thơ văn của họ:
Nguyễn Tuân độc đáo khi viết tổng luận
về Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,
Nguyễn Du, cũng như Xuân Diệu khi viết về
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương. Đó là những văn
nghệ sĩ đi từ sáng tác đến thể loại
phê b́nh, khảo cứu. Nguyễn Văn Sâm là một trường
hợp ngược lại, có thể do hoàn cảnh phải
sống xa quê hương, ông khởi đầu sự nghiệp
với những công tŕnh nghiên cứu nghiêm túc về văn
học trước khi sáng tác, viết truyện. Các biên khảo
của ông đều lấy chủ đề là văn học
miền Nam (Văn Học Nam
Hà, Văn Chương Tranh Đấu Miền Nam, Văn Chương
Nam Bộ) là những đóng góp độc đáo cho mảng
văn học thường không được đánh giá đúng
mức này. Ông đă đi xa hơn hai cuốn Văn Học
Miền Nam của Phạm Việt Tuyền và Đông Hồ
và đă đưa vào văn học sử mảng văn học
yêu nước và kháng chiến của miền Nam, phần
nào "chính danh" lại cho những văn nghệ sĩ
miền Nam vốn vẫn bị đảng cộng sản
xử dụng cho chiêu bài "yêu nước" của họ.
Về sự chuyển hướng, chính tác giả đă
cho người đọc biết : "qua Mỹ viết
truyện ngắn v́ những thôi thúc phải nói lên sự
suy nghĩ của ḿnh về quê hương và thân phận người
Việt ngay trên quê hương hay lạc loài tha hương"
(1). Về sáng tác, Nguyễn Văn Sâm đă xuất bản
Câu Ḥ Vân Tiên (1985), Ngày Tháng Bồng Bềnh (1987). Trong bài này
chúng tôi viết về tập Khói Sóng Trên Sông mới do tạp
chí Văn xuất bản đầu năm 2000, đúng ra là
một vài cảm tưởng về thể loại truyện
ngắn và văn chương miền Nam, qua chữ nghĩa
của Nguyễn Văn Sâm.
Tập truyện Khói Sóng Trên
Sông gồm 14 truyện ngắn về hai chủ đề
chính : quê người và quê nhà. Hăy nói chuyện quê người
trước. Truyện Khói Sóng Trên Sông là truyện cuối được
dùng làm tựa cho cả tập, viết về đời sống
nơi xứ người nhưng ở đây, cũng như
các truyện ngắn khác về cùng chủ đề, h́nh như
các nhân vật tiếp tục kéo dài nếp sống ở
quê nhà nhiều hơn là những bận tâm hội nhập.
Trước khi tác giả đưa
người đọc đến bến sông bồi hồi
nh́n khói sóng, hai nhân vật Chuyên và Vũ đă phải trăi
qua sàng lọc hội nhập. Về vấn đề hội
nhập, tác giả không dùng dao to búa lớn, chỉ gợi
cảm qua h́nh ảnh, t́nh cảnh. Chuyện hai chị em
Chuyên và Vũ ở Tiểu Sài-G̣n, c̣n là chân dung cuộc đồng
người Việt ở
Hoa-Kỳ nói chung với những nhân vật có máu lănh tụ
... ở xứ người, sống bằng trí nhớ dù
thời gian qua vẫn không ... phôi pha, thường tưởng
tượng, thêm thắt, điểm phấn. Ở quán nước
Chuyên làm hầu bàn, họ là những "tục khách":
"Những khuôn mặt mang nụ cười nham nhở.
Những hàm răng cáu bợn thức ăn. Những hơi
thở nồng hơi bia xú với thực phẩm chưa
kịp tiêu hóa, tạo thành mùi cám heo lâu ngày, chuyển mùi.
Chuyên muốn gạt phắt những chúng sinh lô nhô chung
quanh sang một bên để chạy mau về pḥng ḿnh nằm
sải tay thở những hơi dài trút hết những ưu
sầu, chán chường ra khỏi tâm tư" (tr. 250). Thế
hệ của Chuyên lớn lên khi cuộc chiến đă chấm
dứt, phải sống trong xă hội cộng sản rồi
vượt biển bị hiếp đáp. : "Ngày trước
lạnh lùng giết nhau trong cái dửng dưng của không
hận thù, ngày nay lạnh lùng làm khổ nhau đến chết
trong bầu không khí tràn đầy hận thù âm-ỉ. Các
chú, các bác mau chân nhanh tay chạy vọt qua đây đâu thấy
chúng tôi bị hành hạ đủ điều đâu..."
(tr. 247). Chuyên lợm giọng trước những người
thích tới quán để sống cái quá khứ vẽ vời
và sống ảo tưởng "anh anh em em" với các
cô gái đáng tuổi con cháu.
T́nh yêu, cuộc sống của
Chuyên, cũng như nhiều người tị nạn
khác, phải sống cái bi đát ở giữa hai văn
hóa, hai thế giới : Khoa ở đây, Hùng quê nhà; t́nh người
ở quê vương vấn v́ nhiều kỷ niệm, v́ khởi
từ gốc rễ, thành ra dễ lơ là với t́nh bạn
mới, Chuyên tự hỏi "tại tôi không biết điều
chỉnh nhăn quan để phù hợp với cuộc đời
mới bon chen bên này?..." (tr. 249). Đến khi mất
t́nh yêu ở Việt Nam, Chuyên mới nhận ra ḿnh "chỉ
là một con vật nhỏ dật dờ theo con sóng đời
trôi dạt. Nhưng sao tôi nghe muôn ngàn đổ vỡ tàn khốc
trong hồn, nghe hụt hẫng như ḿnh không c̣n quá khứ,
hôm qua được sanh ra và hôm nay là tôi của hiện tại,
tâm hồn trống không" (tr. 256).
Trong khi t́nh yêu ở xứ người
là những bất ngờ. Martha, người yêu của Vũ,
em Chuyên, đă ngoại t́nh dù đang có chửa, đang
"mang mển" - nói như Nguyễn Văn Sâm. Một
hội nhập không lối thoát mà rồi cũng chẳng đưa
đến đâu!
Trong những truyện khác, đề
tài hội nhập được nói đến và thường
là những vấn nạn, như cha mẹ già cả bệnh
tật con cháu phải chăm sóc trong khi phải bon chen với
đời sống mới, trong Mát Lạnh Tuổi Vàng, như
những va chạm với người dị chủng có
khi gây hiểu lầm, trong Ông Già Noel Có Thật, như nếp
sống cá nhân và cô đơn của giới thiếu niên đưa
đến những thảm cảnh bị dụ dỗ,
trong Người Bí Mật Chiêm Ngưỡng, ....
Dù rồi cũng thành công, cũng
sống c̣n, đi lên nữa là khác, nhưng đời sống
hội nhập không khỏi có những khó khăn cho các thế
hệ hăy c̣n nhiều liên hệ với quê hương. Bởi
thế khi hoàng hôn xuống, thời điểm mà con người
xa quê thường nhớ nhung, hay hướng về chân trời
thân thương cũ, nhất là khi đứng trước
con nước xứ người, giữa cái mơ hồ,
đời mới cũ, tâm sự u uất v́ nói không ai hiểu,
không có ai hoặc không ai có thể hiểu. Tác giả không nhắc
nhở nhưng đă dùng ư câu 8 của bài Hoàng Hạc Lâu của
Thôi Hiệu để đưa người đọc đối
đầu trước một t́nh cảnh sống, trước
câu hỏi đâu là quê hương! "Yên ba giang thượng
sử nhân sầu" như một kết cục tất
yếu của hạc vàng vang bóng của ngày cũ, quá văng,
của người xưa, đi không trở lại; mây trắng
mênh mông, càng mênh mông thêm nỗi buồn xa xứ!
Khi viết chuyện ở xứ
người, câu văn Nguyễn Văn Sâm thường ngắn
gọn, ít vần và đối, nhưng trái lại, khi tả
chuyện quê nhà với những nhân vật thật "lục
tỉnh" gắn liền với quê hương, th́ câu văn
dài ḍng như có thế mới nói hết được tâm
sự, mới tả hết được dáng cách con người
và góc cạnh của những khu phố, đường
làng quê!
Như Nước Trong Nguồn
là một truyện ngắn viết về số phận của
một chàng thanh niên què quặt xưng "tôi", mặc
cảm ngập trời về thân thể của ḿnh mà lại
luôn luôn thèm khát xác thịt đàn bà, cuối cùng đành chịu
lấy một thiếu nữ đă có bầu với kẻ
khác, qua sự sắp xếp của bà mẹ. Hương Cỏ
nhắc nhớ một mùi hương sống động của
quê hương qua chuyện "gái bao" của một Việt
kiều "già dịch". Âm Dương là cuộc sống
khốn khổ ở quê nhà sau ngày "giải phóng". Một
quê hương rất tha thiết, bùi ngùi! Người xa
quê như luôn trông về quê nhà, nơi đó có "ngôi nhà
tràn ngập t́nh gia đ́nh, đứng nép ḿnh bên bờ con
sông lớn ngàn đời sóng vỗ (...) tất cả đều
là khói sóng trên sông cả" (tr. 263).
Quê nhà ngập trí nhớ, nên từ
một điểm kư ức nào đó cũng có thể phóng
ra cả một quăng đời hay mảnh đời đă
qua nhưng vẫn sống động! Trong Quê Hương
Ḿnh, thế giới của thầy Năm với chiếc
ghe cá đi khắp nẽo sông bến nước, của
d́ Tư và anh em thằng Đực. Hễ nhắc tên Chợ
Đệm đă "gợi trong ḷng d́ cảm giác bồn
chồn xao xuyến. Đường về không xa, nhưng
sao bao năm nay đâu dám nghĩ tới!" (tr. 189). Thật
vậy, Quê nhà là những địa danh thân thương.
Trong Theo Gót Huyền Trân, người đọc như
"thấy" lại Sài-G̣n, Khánh Hội, Chợ Lớn,
xóm Mả Ngụy, đồng Tập Trận, ... của những
người lục tỉnh lên chốn thị thành nhiều
cạm bẫy, bất ngờ, của những "tây-tà,
chà-và, các-chú", của một thuở xa xưa! Một
Sài-G̣n mà "bàng dân thiên hạ hướng về Sài-g̣n như
thể hoa quỳ hướng dương" (tr. 51). Nhân vật
xưng tôi trong Biển Trời Lai Láng tâm sự: "Sài-g̣n đối
với tôi thân thiết đáng nhớ, xa trong thực thức
nhưng tiềm thức không bao giờ xa. Bao nhiêu đó đă
là quá đủ. Một vài chi tiết cụ thể về
nơi nầy nơi nọ, người nầy người
kia, nói cho cùng, cũng chỉ như một nhúm sao nhỏ
nhoi trong vũ trụ bao la của triệu triệu dăy Ngân
Hà" (tr. 158). Kể Chuyện Ngày Xưa đưa người
đọc trở về Mỹ Tho và ngôi trường Nguyễn
Đ́nh Chiểu của hôm nay: "Bây giờ th́ tang thương
đến cả từng mảnh nhỏ của ngôi trường
v́ người ta không làm tṛn nhân luân" (tr. 131); tang thương
cho cả người cũ về thăm cảnh xưa vốn
đẹp trong trí nhớ. "Lá me vàng úa bay lă tă, lược
lờ trong không gian, như xúc động bùi ngùi đưa
tiễn, rớt lấm tấm trên cái đầu bạc trắng
của người thầy giáo già mất quê hương và
mất luôn cả kỷ niệm" (tr. 132). Kiếm t́m có
khi chỉ đưa đến thất vọng!
Quê hương c̣n là những
mùi hương, mùi thơm của hoa, của đất,...
Truyện T́nh Đất bắt đầu với "mùi
thơm thoảng quyện mơ hồ" của bông lài;
truyện chấm dứt với lời thú đậm t́nh:
"Bao nhiêu năm nay tôi thường chiêm bao thấy ḿnh đương
ở trong căn nhà cũ. Tôi thấy ḿnh tưới nước
bông lài buổi sáng sớm mai. Tôi cảm nhận được
rơ ràng mùi bông lài thơm nhè nhẹ trong không khí, một mùi
quen thuộc mà tôi không thể nào gặp được ở
bất cứ chỗ nào..." (tr. 240). Sống ở quê người
mà vẫn có cảm giác như đang sống ở quê nhà. Cảm
giác của mộng mị trở thành ảo giác khi phải
trực diện với cuộc đời trước mặt,
nhưng trong trí nhớ th́ ngập tràn. Nhưng quê nhà cũng
là những mùi hôi của những chốn bùn lầy nước
đọng của người ăn xin, của những
trẻ đi lượm cá śnh ở chợ (Quê Hương
Ḿnh, tr. 178-179). Sống ở xứ người có lúc
"nghe" được mùi thơm bí ẩn tỏa ra từ
một Việt kiều "già dịch" như mùi hương
cỏ, như "mùi hương con gái" (tr. 108). Khứu
giác người xa xứ không lầm, nhưng khi hiểu
nguồn gốc mùi th́ hương cũng mờ thoáng lần!
Đă vậy trong cái xă hội người Việt xa xứ
có những mùi hôi của những "khuôn mặt mang nụ
cười nham nhở (...) những hơi thở nồng
hơi bia xú với thực phẩm chưa kịp tiêu hóa, tạo
thành mùi cám heo lâu ngày, chuyển mùi..." (tr. 250).
Quê nhà cũng c̣n là những tiếng
động, tiếng người, của chợ Tết
trong T́nh Đất, ồn ào náo động đó rồi
văn chợ cũng nhanh: "Chợ ba mươi Tết kỳ
lắm, đông như họp chợ âm phủ mà chừng
trời đứng bóng th́ tan gần hết, lác đác c̣n lại
c̣n thua chợ ngày thường nữa..." (tr. 224). Nào là
những tiếng động của Sài-G̣n ngày cũng như
đêm, trong Theo Gót Huyền Trân. Tóm, tiếng động, hương
thơm, ... người lưu xứ thường hăy c̣n lưu
giữ một phần hồn của cố quốc, nhất
là ở thế hệ thứ nhất! Viết đến,
nhắc lại, như một thảo hiếu với đất
đai, nguồn cội!
Các truyện của Khói Sóng
Trên Sông phần lớn có cấu trúc chặt chẽ, nhiều
t́nh tiết, có những kết thúc đầy bất ngờ.
Cổ điển truyện ngắn, nghệ thuật văn
chương, không làm dáng thời thượng cũng chẳng
tân cải bất ngờ! Nhân vật thường hiền
lành, đơn giản dù tâm hồn cũng rất khúc mắc
- những "tôi" tật nguyền dồn nén trong Như
Nước Trong Nguồn, những Cô Út trong T́nh Đất,
d́ Út, cậu Bảy trong T́nh Lụy Thiên Thu hay người
con dâu hiếu hạnh trong Mát Lạnh Tuổi Vàng, v.v.
*
Chất Nam "lục tỉnh"
của Nguyễn Văn Sâm thể hiện trong chữ dùng,
trong phong cách viết, tả nhân vật và tỏ lộ tâm
t́nh. Nguyễn Văn Sâm tự đề ra cho ḿnh một loại
"cương lĩnh" trong Bài Chàm Về Viết ở
đầu tập truyện: "... Cái quê hương mến
yêu, chốn sanh trưởng thân thiết, tiếng địa
phương nghe từ khi c̣n nằm vơng ẩn náo trong hồn,
tuông ra đúng lúc, phải chỗ..." (tr. XVIII).
Nguyễn Văn Sâm có một
ngôn ngữ "miệt vườn" đặc sắc.
Ông xử dụng nhiều tiếng đặc "miệt
vườn", những phương ngữ làm nên cái duyên
của miền Nam lục tỉnh. Ông dùng nhiều từ
láy và đặc biệt ông đă cẩn thận gạch nối:
- "Trước đây thằng
đó thấy tôi c̣n đứng dậy dă-lă chào hỏi,
khúm-núm bẽn-lẽn, mà con Út cũng coi bộ sợ-sệt,
bối-rối" ... "Thét
rồi nó tới chà-lết quết-xảm ở nhà tôi, gặp
th́ chỉ chào sơ sơ rồi quay ra tíu-ta tíu-tít với
con Út..." (tr. 214).
- "Sồn sồn tuổi
nhưng du dương giọng, bà Hương có tiếng chửi
không khác là bao với tiếng hát ru em trưa nắng, mùi mẫn
như bài ca dạ cổ hoài lang từ phu tướng lên đường,
đă điếu c̣n hơn nghe mấy con nhỏ xóm dưới
kéo vuốt mấy tiếng chót của một câu ḥ ruột
lên cao ngất, nhọn lễu như kim, chích nhè nhẹ nhột
nhột vô tim " (tr. 22).
Hay : "... cần lắm th́
ậm-à ậm-ừ cho qua..." (tr. 24); "mang bầu lạch
ạch cũng ḅ ra chợ, mới đẻ hôm kia cũng
te te đi bán..." (tr. 56), v.v. Vừa dùng tiếng láy vừa
dài ḍng và màu mè như tiếng nói người miệt vườn:
"ngâm nga sông dài con cá lội biệt tăm" (tr. 25). Như
một mạch tư duy liên khúc. Giữa những khớp nối
tư duy, cảm xúc ấy là những h́nh dáng con người
và cảnh tượng có sức tỏa rộng, gặp gỡ
và xuyên thấm vào nhau!
Ông có tài quan sát và tâm lư như
phân tâm mặc cảm của nhân vật tật nguyền mà
ham gái trong Như Nước Trong Nguồn: "Từ lâu rồi
tôi chỉ đứng xớ-rớ trước cửa nhà
thèm thuồng, với cảm tưởng rung động ở
từng sợi gân trong thân thể, ngó theo lũ con gái nhún
nha nhún nhẩy, để rồi sau đó nằm cong queo
trong một góc giường nhắm mắt vẽ lại
h́nh ảnh trong trí hết đứa nầy tới đứa
khác. Thường thường tới đứa thứ
hai th́ tôi mệt lă, tim đập th́nh thịch như trống
chầu, ngủ thiếp đi lúc nào không hay, nhiều khi thức
giấc bàn tay trái vẫn c̣n ướt mẹp đương
nằm giữa hai bắp vế, thoảng hôi một mùi là
lạ..." (tr. 33).
Tâm lư như khi tả người
ghiền thuốc ở xứ người hết tự do
như trước: "Thỉnh
thoảng lắm mới có dịp tất cả mọi người
cùng đi vắng, tôi được tự do rít hơi thật
dài, thật sâu, ém hơi lâu trong phổi, phun ra rồi hít vô
ngay lại bằng lỗ mũi. Những lúc nầy th́ đă
tận mạng"(tr. 105).
Cả trong quan sát diệm mạo
con người, các nhân vật của ông hay chú ư đến
các bộ ngực nở nang của phụ nữ. Một
nhân vật nói về một cô gái miệt vườn:
"Con Cúc trổ mă cả năm nay, tay chưn tṛn trịa,
vú dậy đội lớp áo lên cao nghệu ḍm ngang thấy
trơn láng mềm mềm ra vẻ con gái quá chừng."
(T́nh Đất). Tật nguyền như nhân vật xưng
"tôi" trong Như Nước Trong Nguồn mê gần hết
các cô gái trong xóm cù lao: "Mấy đứa nầy đứa
nào đứa nấy đều bị tôi "tưởng
tượng" một vài lần khi ban ngày nhỏng nhảnh
đi ngang qua nhà tôi, cười cười nói nói, cái quần
lănh đen láng o ḍm không thôi đă thấy mát rượi
ḷng, cái áo nút bóp căng thịt, cặp mắt bén ngót như
dao cạo..." (tr. 34), rồi mê Nhàn, bạn của anh
ḿnh, cũng qua bộ ngực: "Ngồi trong nhà thấy
nó thấp thoáng bên kia, ngực một ngực, lồ lộ
thiếu điều căng xé áo nhảy ra ngoài, tôi cũng đă
cảm nhận nỗi vui vui tràn ngập ḷng, đời thiệt
tḥi như được trút bớt vài phân." (tr. 27).
Văn chương Nguyễn
Văn Sâm tưởng chừng theo truyền thống viết-như-nói
khởi từ trường phái Trương Vĩnh Kư, qua Hồ
Biểu Chánh, B́nh Nguyên Lộc đến Vơ Kỳ Điền,
Nguyễn Tấn Hưng thời hiện đại. Khởi
sáng tác cùng thời với hai nhà văn sau, nhưng các truyện
ngắn của Nguyễn Văn Sâm nếu đọc kỹ
mới thấy ông đi xa hơn: ông viết như nghĩ
và dùng ngôn ngữ nói để làm văn chương. Ông hấp
dẫn người đọc bằng các chi tiết ly kỳ
xen kẽ với lối nói, lối suy nghĩ của các
nhân vật đa dạng nhưng tiêu biểu cho "miệt
vườn". Cái khiến Nguyễn Văn Sâm không giống
các nhà văn "miệt vườn" khác, là chính trong
câu văn mà muốn hiểu th́ người đọc phải
hiểu được mạch nổi, mạch ch́m và lớp
từ ngữ bộn bề, dồi dào, nhuốm trí thức
của ông. Có thể xem Chờ Cho Trăng Lặn và Như
Nước Trong Nguồn là hai truyện ngắn tuyệt
tác tiêu biểu của Nguyễn Văn Sâm ! Nhưng trong các
truyện c̣n lại khi viết về quê nhà, kỷ niệm,
thời gian và cảm xúc tác động mạnh thành ra có khi
hơi dài ḍng, vận dụng đối và vận nhiều,
có thể khiến người đọc nhiều khi khó
theo dơi câu chuyện. Người đọc có thể lạc
đường, một lạc lối dễ thương
thôi, giữa một rừng tâm t́nh và cảm xúc của tác
giả. Kiệt Tấn cũng dài ḍng nhưng ở một
tầm cỡ khác, ở chổ nhiều đối thoại
và nhiều t́nh tiết động tác hơn và câu chuyện
hay lập lại. Hồ Trường An cũng dài ḍng nhưng
trong màu mè nhân tạo và miêu tả trên một nền "miệt
vườn" đă sẵn! Chúng tôi nghĩ Nguyễn Văn
Sâm có chủ tâm chi tiết h́nh ảnh và dài ḍng, du dương,
câu văn nhiều nhạc tính - dài theo hơi kể chuyện,
lối "nói" văn chương truyền thống
trong Nam, du dương theo lối nói "vè", vần điệu,
của ca dao, của nói thơ Vân Tiên hay mấy câu cải lương
vốn thường dài hơi. Tất cả như cốt
để khơi dậy nơi người đọc những
cảm xúc sâu đậm, những tiếng thở dài và cả
những phẫn nộ khi xem đến ḍng kết truyện.
Từ Câu Ḥ Vân Tiên qua Khói Sóng
Trên Sông, Nguyễn Văn Sâm đă chứng tỏ có kỹ
thuật văn chương, cái "tải đạo"
của ông nếu có, th́ cũng thuộc về nhân đạo
tự nhiên như con người th́ phải thế. Chờ
Cho Trăng Lặn là một điển h́nh, tác giả viết
về một mối t́nh đẹp trong khung cảnh văn
hóa rất lục-tỉnh thâm nhiễm luân lư nền tảng
á-đông, chuyện t́nh "thằng Thành" hay đến
nhà con Kén nghe nói thơ Vân Tiên. Hai đứa hạp nhăn nhau,
hay ra bụi môn chờ cho trăng lặn. Nhưng con Kén lấy
chồng giàu mẹ cha ép gả, thằng Thành "chất
chứa mối u t́nh nặng trĩu ḷng nó, nặng nhưng
vẫn c̣n đủ đẹp để lôi chưn nó lại,
không cho cất bước giang hồ t́m quên" v́ nó nghĩ
chỉ có nó mới có cái t́nh và cái hồn của con Kén, c̣n cậu
Hai Phó Hương Quản "tuy là chồng nhưng anh có
biết cái t́nh cái hồn của nó nằm ở đâu đâu
nà!" (tr. 175). H́nh như Nguyễn Văn Sâm viết truyện
này nhân cuộc tranh luận về thơ Vân Tiên trên tạp
chí Văn Học (CA), thể loại truyện ngắn qua
ng̣i bút của ông h́nh như có sức thuyết phục hơn
là những lư luận ồn ào. Thật vậy, ông tâm t́nh để
thuyết phục hơn là dùng luân lư hay lư luận để
can thiệp vào câu chuyện. Trong những truyện về đời
sống hội nhập ở xứ người, ông cũng
tỏ ra hụt hẫng, ngập ngừng - như nhân vật
của ông, trước một số t́nh cảnh; đó có
thể cũng là t́nh cảnh chung của tất cả người
Việt xa xứ!
Truyện ngắn của Nguyễn
Văn Sâm nói chung là không khí chữ nghĩa, là tấm ḷng của
tác giả. Nhiều truyện ngắn trong Khói Sóng Trên Sông
khiến người đọc an tâm phần nào về văn
chương "miệt vườn" và bớt bi quan hơn
nhà văn Nguyễn Mộng Giác năm nào nhận xét về
hiện tượng "các nhà văn gốc Nam Bộ xuất
hiện nhiều, và viết nhiều truyện ngắn phong
tục "miệt vườn" như lúc này ở hải
ngoại (...) bị "vướng cái lưới 'phản
ảnh' (...) quá chú ư tới vấn đề, truyện miệt
vườn đang sa vào cái tật quá khích. Nhiều truyện
ngắn viết ở Âu châu, Bắc Mỹ năm 1992 mà người
đọc có cảm tưởng đang đọc một
truyện của Hồ Biểu Chánh viết trước đây
(gần) một thế kỷ ! Kể cả lối tác giả
xen vào câu chuyện giảng giải cho nhân vật nghe chuyện
đạo lư thánh hiền, nghĩa là vướng lần nữa
vào cái lưới "tải đạo"" (2). Chúng
tôi vẫn có cảm tưởng điều này h́nh như đúng
cho bất cứ nhà văn gốc miền nào, và cũng đúng
cho một số nhà văn "miệt vườn" hiện
cạn cảm hứng sáng tạo; đó là những truyện
ngắn thiếu kỹ thuật và văn chương, những
"chuyện ngắn", của những "văn chương
ngắn ngủi" của thời gian, những cương,
những kể hoài không hết!
--------------------------
(1) B́a sau, Khói Sóng Trên Sông.
(2) "Cơn khủng hoảng
của truyện ngắn", Văn-Học (CA) số 79
(11-1992), tr. 19-20.
Montréal, 9-4-2000