NGUYÊN NHI:
GIÓ CHƯỚNG VÀ NGỌN HẢI ĐĂNG
Nguyễn Vy-Khanh
Quái Phong! Gió
chướng nổi lên giữa không gian tịnh yên của
văn chương hải ngoại. Gió chướng, nhà
thơ như lạc lõng giữa cuộc đời,
một hoài tìm kiếm. Và ngọn hải đăng
đứng ở cuối chân trời. Bên bờ biển
vắng. "Đêm khơi. Nhật nguyệt vỡ. Tôi
hụt hơi trong biển cuồng. Tôi chới với trên
sóng bủa (... ) Tôi vốn nghĩ hoài về một
ngọn hải đăng. Thầm lặng của riêng
mình. Vẫn thương em như thương tiền
kiếp. Vẫn nhớ em như nhớ căn phần.
Đâu đó một góc trời, tôi biết, có em khắc
khoải đợi chờ, mà mệnh tàu tôi lẽ đâu
hoài biệt xứ?" Kiếm tìm, chờ đợi, và
ông đã gặp yêu dấu, Em! "Đêm khơi. Nhật
nguyệt ngộ. Tôi chấp chới trên biển
đời hoan lạc. (...) Tôi dấu yêu chùm sáng diệu
kỳ. Em. Trong cuộc bể dâu này tôi có thể ném tung hê
tất cả. Cần gì đâu ngoài vòm sáng tình em? Nhưng,
xét cho cùng, ai chẳng có cho riêng mình một ngọn hải
đăng? Hãy cứ đi tìm. Quanh đời bão lộng".
Trong Khơi mở đầu hành trình thi ca, Nguyên Nhi đã
viết như vậy! Em, chùm sáng diệu kỳ đã tìm thấy,
bên đời bão lộng mà kiếm tìm đã trở thành
số kiếp! Mãi. Hoài!
Hãy dõi theo những cơn gió
chướng! Gió chướng đã thổi qua quê
hương! Bão vũ. Tàn độc. Oan chướng.
Đã bốn ngàn năm:
"Ngọn quái phong thổi
suốt bốn ngàn năm
Thổi thông thống nửa
vòng trái đất
Dừng lại đây một
chiều thở mệt
Đông phương chớp
bạo sấm cuồng..." (tr. 16). Dừng lại
đây, đây là Oklahoma, cũng là Em, nơi tạm dung, quê
hương thứ hai. Gió bạo tàn đó đã gây bao
thảm trạng, di phần. Cơn gió ác đã thổi qua
bến sông Mỹ Tho, quê hương nhà thơ. "Phố
xám hiu hiu cờ giặc đỏ / Nỉ non vĩ cầm
chiều mênh mông" (tr. 11).
Màu ảm đạm, hiu hiu.
Ngọn gió chiến tranh trong mây mù vần vũ, rừng U
Minh hay hồn người không tỏ:
"Ai thổi hiu hiu ngọn
gió nam non
Lòn suốt xuân ta U Minh lửa
đạn
Hỏa pháo treo đầu
nửa đêm tiền trạm
Bờ kia ơi mỏi mắt
ngóng đuôi Vàm..." (tr. 50).
Người đuổi
bắt người. Trò cút bắt chết người trên
cạn, dưới sông. Chiến tranh trong rừng sâu, trên
ngọn nước.
Nay phận dĩ lỡ,
lưu xứ như kiếp nợ trả chưa xong. Thân
nơi đây, xứ người, Oklahoma, nhưng hồn
quanh quẩn bến sông Vàm, sông Mỹ, bến Rạch
Miểu, v.v. Phút tĩnh lặng, nghe như tiếng mẹ
hiền, dấu chân người và bóng đỗ đường
quê.
"Bên đó mùa này ngọn
chướng lật
Rách bươm tàu chuối sau
hè
Con nhớ má đầu
trần chân đất
Lò dò mấy ngõ
đường quê..." (tr. 102).
Điệu Lưu Thủy,
Hành Vân đã thành cố quận. Mà thơ Vân Tiên
người nói hay hát thành nếp cũ, bên vách tranh thưa:
"Trưa hè treo võng hát
Lục Vân Tiên
Má chỉ muốn con như
người họ Lục
Cho dẫu má cứ đầu
trần chân đất
Gió cứ lùa thông mái vách
thưa..." (tr. 103).
"Thằng trai Nam kỳ
nhớ về lục tỉnh
Tên đãng tử Mỹ Tho
nhớ dòng Bảo Định
Một khoảnh đời
gạo chợ nước sông /
Nha Mân tháng này con nước
hỗn leo đồng
Bày cá quẩy lia chia
đầu ngọn sạ (...)" (tr. 49).
Nhớ thương thì cũng
chỉ ở nơi nầy, đã xa, bởi cũng vì gió
chướng cuộc đời mà thân phận thua phải
đỗ "bến" Oklahoma. Giữa hay cuối
một kiếm tìm, có tra vấn cũng vô tình thôi.
"(Sao vậy, Okla
Sao bếp lửa không là
nơi sum họp
Sao lửa chỉ kể
về những kẻ đi xa?)" (tr. 17).
Nơi có những buổi sáng
"bàng hoàng gặp thoáng nắng vàng lục tỉnh"
(tr. 27). Và có những đêm. "Đêm nằm trăn
trở. Biển sông xa" (tr. 97). Ừ nhỉ,
"khất khưỡng chiều say trên xứ lạ"
mà mơ hồ thấy lại chiến hạm xưa.
Giữa huynh đệ chi binh, còn có thể nào "vỗ
mạn tàu mà ca"?
"Sóng tự nguồn xanh
lăn với suối
Hai mươi năm nở
một ngọn phiêu bồng
Cám ơn người đã
thương ta như sống
Hèn chi đời ngợp sóng
Cám ơn ai đã yêu ta như
biển
Nên ngậm sóng trong lòng
(...)" (tr. 94).
Đành "Thôi, vổ vào ký
ức mà ca / Có hạt mưa nào vừa bay qua khóe mắt"
(tr. 96).
Buồn. Nhất, với
ngọn gió tháng Tư tàn khốc. Gợi nhớ một
"tháng Tư đưa cơn bão rớt âm thầm":
"Nhỏ rời ta như
bỏ chiếc răng đau
Tháng tư thổi dốc
cầu xưa rờn rợn
Ngày tắt muộn và cơn
mưa đến sớm
Bâng khuâng rơi ướt cánh
phượng đầu mùa..." (tr. 26).
Có những ngọn gió
đời đem tình yêu đến. Mùa Thu buồn xa
xứ, có lá đỏ bay. Em, và nụ cười, bên vành
nón, ánh mắt nào!
"Bốn mùa tôi nhỏ
dấu nơi đâu
Mà nụ cười dấu
ở khăn tay
Mà ánh mắt dấu sau vành nón
Mà lời người dấu
trong gió bay..." (tr. 48).
Có Em thì "hình như mọi
sự chỉ mới bắt đầu" (tr. 136). Có
tiếng người yêu dấu. Nhẹ nhàng gió có lên lúc
nhớ Em.
"Lúc nhớ em tôi hay nghĩ
về rừng
Thu và gió và bầy chim xao xác
Tôi đã bảo với ngàn cây
tan tác
Có thể nào cũng
đừng trách em..." (tr. 33).
Gió đó lay động tóc
đuôi gà. Và tình yêu. Dù có mưa:
"Đêm nằm mưa
Oklahoma
Mưa bên ấy, mưa bên này
biển lớn
Hạt lất phất trong ta
dòng bất tận
Gió không lay sao lộng tóc
đuôi gà..." (tr. 69).
Gió có liên hồi, vực gió,
đám bạn bè, chai rượu, tiếng cười nói,
cứ như Bá-Nha Tử-Kỳ! Bên góc rừng:
"Lá từ vực gió theo
người
Vèo qua cửa hẹp vào
chơi chỗ nằm
Chiều hôm nhặt lá quanh
phòng
Thấy trên tờ nhỏ dâu
chân bạn bè" (tr. 64).
Và ngọn hải đăng
tìm thấy!
Không giản đơn,
ngọn hải đăng! Có một hải đăng
buồn. Đơn độc. Tuy vững như bàn
thạch. Giữa bão táp, lửa loạn. Ngọn hải
đăng, một chỗ để về, để nhung
nhớ:
"Lúc nhớ em tôi hay nghĩ
về biển
Nơi cổ sơ tôi bước
lạc cõi người..." (tr. 34).
Ngọn đèn biển.
Kiếp dõi bóng và rọi sáng, sáng trong tâm tưởng.
Mỗi khi nhớ, là một Mỹ Tho yêu dấu.
"Mặt trời qua xích
đạo chói chang
Ngọn đèn biển kiêu
căng đón gió đấu ghềnh
Chú ốc mắc cạn
ngủ vùi bên kè đá
Chập chờn mơ giấc
đai dương xanh..." (tr. 56).
Đông đang về, đành
phải cập bến thôi.
"Chào, cúi chào những bông
tuyết đầu mùa
Chàng thủy thủ cuối
cùng rồi cặp bến
Trả giống tố cho
mịt mùng biển lớn
Trả nắng cho boong,
trả gió cho buồm..." (tr. 76).
Phần hai tập thơ là
những lời tình với hải đăng, với yêu
dấu, ở nhiều khung cảnh (tháng tám sinh nhật,
ngày hè, tháng ba, ngày giáng sinh,...), ở nhiều tình
cảnh và trên hết trãi
rộng lời tâm sự, tỏ bày, nài nĩ 'ngập
ngừng chi lắm, hải đăng", "hãy nói
rằng ta vẫn còn em", "nhiều đêm thế
đấy, hải đăng", những mong "cùng ai
đốt lửa", "trang trải" khi chớp bể
mưa nguồn,...
"Cũng có khi bắt
gặp một tấm lòng
Bỗng hãi sợ tự
tiền căn oan khốc
Lăn về đâu, cổ xe
già kiệt, dốc
Tình về đâu, cứ
hỏi gió về đâu" (tr. 21).
Cũng vì hải đăng mà
"anh mê miết về phương xanh ngơ ngác / ngày bay
dài bỗng rớt buổi chi lan" (tr. 126)., một buổi
xế chiều, cành hoa nở vội! "Nhớ em
nghĩa cũng trăm đường hỗn mang" (tr.
123). Vì đã quyết"Tôi ôm đẹp tình gần"
(Khơi). Tình khơi dậy nguồn thơ, nguồn
sống. Khởi từ một hương đời
"Hương lạ giữa tro tàn"!.
Hải đăng là Em. Là yêu
dấu, vì có lúc tha nhân không là địa ngục. Chiếc
vỏ chai thả trôi năm xưa đã đỗ bến.
Dù "chiều biển lạ chửa tàn cơn mộng
dữ / Ngập ngừng chi lắm, hải
đăng?":
"Ta dong buồm đơn
độc suốt trăng
Trôi đi, trôi đi cuồng
lưu ký ức
Bão nổi lên rồi,
đạo suy đời tận
Yêu em, hải
đăng..." (tr. 109).
Hải đăng hỡi,
"về đâu chiều lạnh" khi "mọi
sự đều mong manh thế, hải đăng".
Thôi, "tìm ai chiều lạnh, hải đằng",
Chúa thì ở xa, cao, tìm chi nữa, "mệnh số này,
cầm lấy, hải đăng"! tình yêu như ám
ảnh. "Em đâu đó chập chờn làm con sóng /
Vỗ loanh quanh nỗi nhớ bức không rời" (tr.
113).
Vô tri hải đăng như
chứng nhân câm nín của tìm kiếm, bất
hạnh,"những người đàn bà ra đi tất
tả / cùng những lời chúc lành". Đã chúc lành sao
lại bỏ đi? Đã ra đi sao còn gian dối đa
ngôn?
Ngọn đèn có tỏ có lu,
nhưng muôn thuở ngóng đợi những bầy hải
âu biệt xứ, những người con bỏ xứ
bỏ quê. "cái thuở người xa tàu mất
biển" (tr. 113), "mười lăm năm luân
lạc, quên, hải đăng..." (tr. 114)..
Và hạnh phúc tìm thấy,
Tập thơ kết đoạn ở biển bờ Tây
Bắc, ở ngọn hải đăng hạnh phúc.
"Triều lên triều lên thành sóng dựng / Hạnh phúc
lớn lên như triều dâng". Hạnh phúc, sau cơn
"hụt hơi réo gọi những hồn tàu / Ta
đến đây như trở lại từ đầu /
Thả chiếc neo giữa lòng em độ
lượng...":
"Hỡi những ngọn
đèn biển bờ Tây Bắc
Lặng lẽ vươn vai soi
rọi đời tình
Soi hoài công mấy hồn tàu
lưu lạc
Trôi trắng cuộc nhân
sinh"
Chân lý giản đơn tìm
thấy:
"Hạnh phúc có khi
đơn giản vậy, hải đăng
Nên đêm lưu xứ
bỗng vui ngút mắt
Hỡi những ngọn
đèn biển bờ Tây Bắc
Thênh thang ta đã có một
phương về" (tr. 152).
* * *
Một năm sau tập
truyện Con Gái Người Gác
Đèn Biển, Nguyên Nhi trình làng tập thơ 158 trang: Quái Phong (Văn học
Nghệ thuật Liên mạng, 2000). Đọc thơ Nguyên
Nhi như xem lại phận mình. Mỗi người. Nguyên
Nhi chỉ còn là cái cớ. Nếu phải cần cớ. Như
tiềm thức trở về. Như tiếc nuối.
Như đã nguồn cơn, đau và khổ ải
cuộc đời! "Chuông gọi dục hồn ai
cố xứ / Hướng dương gục nhập màu
vai áo cũ" (tr. 137).
Người làm thơ, "như tráng sĩ mạt
thời đêm đêm ngắm trang mài kiếm / để tự
cắt đầu mình" (tr. 20)! Thơ Nguyên Nhi như
mở một phạm trù, dù rướm máu vết
thương tiềm thức! Thơ cô đơn
trước Em, người tình vừa kiếp nào
đưa đến, như tặng phẩm, như
dịu êm. Có Em, tóc đuôi gà, nhưng gió chướng
vẫn thổi qua, bên ngọn hải đăng của ký
vãng, của tưởng đã quên, đã xa...
Con nước đã kiệt,
cỗ xe già dừng bên ngọn hải đăng, bên
những con hải âu"xao xác mặt trời chìm",
những con dế gáy và những con "dã tràng buồn hiu
lại thức giấc". Xa những Ngã Ba Lộ Tẻ
của cõi mù tăm hay u minh nhân thế; mặt trời ám mà
thiên địa cũng ám tối! Oklahoma, chốn cỏ
bồng dừng chân hay vĩnh viễn an cư? Cứ xem
như đã thật xa những cơn gió cuốn, những
trận bão cuồng, "ngọn quái phong thổi suốt
bốn ngàn năm..."! Xa những con dốc đời.
"Con dốc xưa tôi đặt tên dốc Đợi /
... Con dốc nay đìu hiu con dốc
Nhớ ..." (tr. 39). Giữa
rừng Thu, ngàn cây tan tác, những bầy chim xao xác...!
Trầm buồn, buồn lớn, giữa những reo vui,
thiết nghĩ, thơ đã lắng đọng nơi con
người lưu thân xa xứ. Và không nơi nào
đẹp hơn quê hương, sách đồng ấu
năm xưa đã nhắc nhở!
Nguyễn Vy Khanh
23-8-2000