VỀ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU VÀ LÝ-LUẬN VĂN-HỌC
Nguyễn Vy-Khanh
Cuộc
tranh luận về Nguyễn Đình Chiểu trên tạp chí
Văn Học (California) từ số 141-142 (1&2/1998) cho
thấy rõ văn học liên hệ mật thiết với
chính trị và thứ nữa, chúng ta vẫn hãy còn có
nhiều vấn đề chưa ngã ngũ. Chưa, không
phải vì chúng ta không hiểu những trục trặc, mà
vì chúng ta vẫn chưa có một môi trường chính
trị và văn học thuận tiện để giải
quyết và phát triển lý luận văn học. Đã
đến lúc nên "thu dọn chiến trường"
nhưng phải chăng chiến tranh hãy còn? Ông Đỗ
Ngọc Yên gọi đó là "di chứng chiến tranh
trong tư duy học thuật" (Văn Học 148).
Một hình thức khác của tranh luận "nghệ thuật
vị nhân sinh / nghệ thuật vị nghệ
thuật" của những năm 1935-1939 ! Lúc bấy
giờ vấn đề đến với giới văn
nghệ vì Việt Nam chuẩn bị đấu tranh chính
trị. Vấn đề hôm nay có khác, nhưng dù sao
nhiều người dễ đồng ý kiến rằng
đã đến lúc phải duyệt xét lại một
số lý luận văn học cũng như một số
vấn đề văn học sử, nhất là việc
dùng chính trị làm tiêu chuẩn cho văn học hoặc
đi xa hơn nữa, dùng chính trị "áp
đảo" văn học và đời sống!.
Nhà
phê bình Nguyễn Hưng Quốc khởi tranh luận khi
đặt vấn đề tái định giá ca dao, đã
đưa nhận xét cho rằng Nguyễn Đình Chiểu
đã là tiêu biểu cho một "lý tưởng ở
đường cùng"? Theo ông, những câu
"Vân
Tiên cõng mẹ chạy ra,
Đụng
phải cột nhà, cõng mẹ chạy vô...
Vân Tiên cõng mẹ
chạy vô,
Đụng
phải cái bồ, cõng mẹ chạy ra,
Vân Tiên cõng mẹ
chạy ra ... "
một
cách nào đó chứng tỏ chân lý Nho học đã không có
lối thoát, "trung, hiếu, tiết, nghĩa" bị
lung lay vào thời Nguyễn Đình Chiểu, "một lý
tưởng ở đường cùng". Điều này
ngày hôm nay ai cũng dễ đồng ý, riêng các ông
Đỗ Ngọc Yên, Nguyễn Minh Tường vì lý do riêng
dễ hiểu đã không đồng ý và riêng ông họ
Đỗ phản đối Nguyễn Hưng Quốc
"đem thước đo của lý tưởng
đạo đức và xã hội áp đặt vào tác
giả và tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu".
Theo thiển ý, Nguyễn Đình Chiểu dù "ở
đường cùng", cũng đã hết lòng với lý
tưởng ông đã theo đuổi suốt cuộc
đời.
Nguyễn
Đình Chiểu tiêu biểu cho một "lý tưởng
ở đường cùng"? Trường hợp
Nguyễn Đình Chiểu không phải là độc
nhất. Vua quan nhà Nguyễn ở những năm giữa
thế kỷ XIX, trước hiểm họa xâm lăng
của người Âu, đều đã không thức
thời. Đạo Nho kiểu Tống Nho không thể cho
phép họ thức thời vì những quy chế đó
cứng ngắc, bó khuôn! Vua Tự Đức và quần
thần thừa hưởng những công trình thống
nhất đất nước và xã hội ổn
định theo Khổng Nho của tiên vương; họ
có khuynh hướng "đóng", "bế quan tỏa
cảng" để bảo tồn hơn là khai phóng và
thực tiễn theo biến cố và thời đại -
súng ống kỹ thuật Tây phương đã đe
dọa Trung quốc và Nhật Bản trước khi đe
dọa bờ biển Việt Nam ! Nho học - Tống Nho
thì đúng hơn, khiến vua quan Trung quốc ngày xưa
quen tự cao: thiên triều, rốn vũ trụ,
"trung" quốc! Sau Minh Mạng, các vua Thiệu
Trị và Tự Đức đã đoạn tuyệt
cả với văn minh phương Tây mà vua Gia Long là
người đã khéo léo dung
hòa theo kiểu Việt Nam. Vua đã thế, quan đã
thế mà những Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu và
Nguyễn Tri Phương cũng đã là những tiêu
biểu đường cùng: cụ Phan không giữ
được ba tỉnh miền Tây, khi mất Vĩnh
Long, đã uống thuốc tự vẫn, cụ Nguyễn
bị thương khi đánh Pháp, đã không chịu
nhận chăm sóc cốt tìm cái chết, và cụ Hoàng
tuẫn tiết theo thành Hà Nội. Tống Nho bị
khủng hoảng mạnh, vì quá gò bó, thiếu tính
"động' và "biến" của đạo Nho
ban sơ. Hành cử của các vị này chứng tỏ
tư cách cao của họ, trung quân ái quốc và sĩ phu,
nhưng không cứu được ai, cũng không làm
chết thêm một tên lính xâm lăng nào!
Nhưng
trong bối cảnh lịch sử đầy biến
động ở cuối bán thế kỷ XIX, Nguyễn
Đình Chiểu đã là một chiến sĩ văn hóa yêu
nước dù ông đã mù lòa khi tai biến đến.
Năm 1858, Pháp đánh thành Gia Định, Nguyễn Đình
Chiểu phải bỏ quê quán ở Gia Định
để chạy về Cần Giuộc nhưng không
được lâu, năm 1861 ông lại phải chạy
giặc về Bến Tre. Trương Định mời
ông làm quân sư nhưng ông lấy cớ mù lòa để
từ chối. Từ đó ông giữ tiết tháo, sống
đời dạy học và làm thuốc. Ông dạy học
trò không thụ hưởng gì của Pháp (cụ Phan Thanh
Giản cũng đã khuyên con cháu không hợp tác với Pháp
trước khi uống độc dược), chính ông
đã từ chối đề nghị trả đất
của viên tham biện (tỉnh trưởng) Bến Tre
Ponchon cũng như không nhận trợ cấp của
thực dân.
Văn
chương của Nguyễn Đình Chiểu tiêu biểu
cho văn chương yêu nước, đề cao lòng trung
quân ái quốc. Người hôm nay xét lại thì dễ
"chê" ông là "hủ nho", không thức thời!
Nhưng "ở đường cùng" và là nạn nhân
của một luân lý đạo đức, ông đã không có
thái độ nào khác hơn là bênh vực và phổ dương
triết lý đó. Và ông đã là một "hủ nho" có
khí phách. Nguyễn Đình Chiểu cũng như nhân vật
Lục Vân Tiên của ông vùng vẫy với "hành
trang" đạo lý đang tàn và bất lực
trước họng súng thần công của Pháp. Lục Vân
Tiên tiêu biểu cho một con người miền Nam
lục tỉnh, dễ bất bình và đầy nghĩa
hiệp. Qua Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã
nói lên tâm trạng và thái độ, hành cử của
giới sĩ phu trước hiểm họa của
người Pháp xâm lăng: đất nước Việt
Nam sẽ mất độc lập và người dân
sẽ mất gốc! Nỗi lo lắng đó đã thể
hiện qua con người Lục Vân Tiên: hào hiệp
cứu người lâm nạn, nhưng cứu xong, xin
người đó - là một cô gái, Kiều Nguyệt Nga,
hãy "khoan khoan, ngồi đó chớ ra", tiếp
tục "thụ thụ bất thân", dù sau này có
thể sẽ nên duyên chồng vợ! Đạo lý cả
lúc ... biến! Nỗi lo đó cũng bầy tỏ qua thái
độ phân biệt bạn thù và tư cách chiến sĩ
của Lục Vân Tiên. Nguyễn Đình Chiểu có ái
quốc lãng mạn quá chăng ? Nước mất nhà tan,
chạy loạn từ Gia Định về Cần
Giuộc rồi Bến Tre, là những cái sống
thường ngày và phẫn nộ của ông, một sĩ
phu mù lòa bị trói tay, vũ khí còn lại của ông chỉ
là thơ nói và văn tế. Nguyễn Đình Chiểu nói
thơ, làm văn tế với mục đích "chở
bao nhiêu đạo thuyền không khẳm / Đâm mấy thằng gian bút
chẳng tà" (Than Đạo), vì "tiếng đồn
trung nghĩa đến xa / Thì giữ cang thường làm
chắc" (Văn Tế Lục tỉnh nghĩa sĩ
trận vong); và "thơ Vân Tiên" từ lâu đã
được người bình dân Nam kỳ lục
tỉnh xem như một hệ thống luân lý
"thiện ác đáo đầu chung hữu báo". Đấy đã là một hình
thức yêu nước cụ thể. Lãng mạn chăng là
những người đem lòng yêu nước đó áp
dụng cho hôm nay, tìm cách đánh động lòng yêu
nước ở con người chân chất ở miền
đất được gọi là "Nam bộ", cho
cuộc chiến vừa qua chẳng hạn! Cũng như
lòng yêu nước và dân tộc cực đoan không bàn
cải! Thành ra chúng tôi nghi ngờ chuyện nói Nguyễn
Đình Chiểu chống Pháp để "giải
những stress cá nhân và thời đại" như ông
Đỗ Ngọc Yên! Vì cũng không thể nói Phan Thanh
Giản, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu tự sát
khi thua giặc cũng là một cách "giải những
stress cá nhân và thời đại". Chúng tôi nghĩ họ
hành cử theo đạo nho nhập thế, theo lối
người quân tử, người chiến sĩ -
nếu phải dùng chữ thời đại! Thù bạn
phân biệt rõ, nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã quá
khích, đã không dùng cả những tiện nghi của
thời đại như xà bông giặt quần áo. Hình
như ông từ chối "thức thời"! Anh hùng
hảo hớn, đến cùng!
Văn
thơ Nguyễn Đình Chiểu thuộc "văn
chương tải đạo", mà chuyện
"tải đạo" thì hình như thời nào cũng
đắt khách. Sau ông, Trương Vĩnh Ký "tải
đạo" để văn hóa dân tộc
được sống còn, miền Bắc cộng-sản
và miền Nam cộng-hòa trong thời 1954-1975 đều
"văn học tải đạo" vì phải
điều động hoặc đối đầu
với chiến tranh. Không "đạo" là chết
hoặc thua! Lòng yêu nước cũng là
"đạo" của nhiều thời và "lòng yêu
nước" tưởng là ý niệm tuyệt
đối, đã thật là tương đối trong
thời gian và không gian. Khi người Pháp đến xâm
chiếm Việt Nam vào đầu hậu bán thế kỷ
XIX, vua quan nhà Nguyễn "yêu nước" hơn hay Nguyễn
Trường Tộ? Các vị thuộc Văn Thân, hay
Đề Thám hay cụ Phan Châu Trinh, là người thật
sự yêu nước? Đánh đuổi thực dân Mỹ
là "yêu nước" hay còn tùy? Hình như ý niệm
"yêu nước" đã bị lạm phát. Dù gì đi
nữa thì ít ra yêu nước có hai hình thức : yêu
nước bảo thủ, giáo điều và yêu
nước thực tiễn. Vua Gia Long và phần nào vua Minh
Mạng thực tiễn hơn hai vua Thiệu Trị và
Tự Đức nệ cổ và đã không thức
thời khi bị biến, những tưởng lòng ái
quốc theo Nho giáo đã đắc thủ sẽ giải
quyết được mọi hiểm nguy! "Thành
đồng" Tống Nho đã gục ngã trước con
buôn quốc tế và trước họng súng của
"bọn Bạch quỉ", nói theo ngôn ngữ
"tự cao" thời bấy giờ!
Nguyễn
Đình Chiểu không thức thời, cũng có thể ông
không chịu thức thời? Dù sao ông đã không quá "theo
thời" như Tôn Thọ Tường. Tuy nhiên,
Nguyễn Đình Chiểu đã tự nguyện
"thức thời" khi thấy đất nước
bị ngoại xâm, nên qua Lục Vân Tiên, các bài văn tế
và thơ văn khác, ông muốn đề cao và truyền
lại cho hậu sinh những giá trị đạo
đức cổ truyền đã chịu thử thách
của thời gian như "trung, hiếu, tiết,
nghĩa", những giá trị sẽ được
Trương Vĩnh Ký tiếp nối phổ dương.
Hiện nay đã có nhiều tiếng nói nhìn nhận Trương
Vĩnh Ký "thức thời" hơn và có cái nhìn dân
tộc "động" hơn nhiều sĩ phu
thời ông.
Nhưng
bản thân Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên
là cũng như các tai mắt trong Nam bấy giờ đã
hiểu trách nhiệm đối với văn hóa dân
tộc, đối với lý tưởng đạo
đức khởi từ "tứ thư ngũ kinh".
Họ hiểu sứ mạng của họ vì miền
đất mới sẽ bị mất cá tính văn hóa
trước sự đồng hóa của thực dân Pháp!
Vào thời điểm đó, có thể nói Lục Vân Tiên là
viên gạch đầu tiên khởi dựng một nền
đạo lý bình dân mà dù theo tín ngưỡng nào, con
người Nam-kỳ lục tỉnh cũng nhận
chịu nền tảng đạo đức đó - đã
trở thành cốt lõi của con người miền
đất này. Sau Nguyễn Đình Chiểu có Trương
Vĩnh Ký, Trần Chánh Chiếu, các nhà văn Tân Dân Tử,
Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Phú Đức,
v.v. và gần hơn có Bình Nguyên Lộc, Hồ Hữu
Tường, bà Tùng Long, v.v. Dấu vết đạo
đức đó còn tìm thấy trong các bài vè, phương
ngữ, thơ truyện và bài bản cải lương và
cả trong nền tảng của các tôn giáo như Cao
Đài, Hòa Hảo, Bửu-Sơn Kỳ-Hương. Vân Tiên
tiếp tục "cõng mẹ" là vì thế!
"Vân
Tiên cõng mẹ trở ra
Đụng
phải Chà Và cõng mẹ trở vô
Vân Tiên cõng mẹ
trở vô
Đụng
phải (ông) Tây cồ cõng mẹ trở ra"
dĩ
nhiên là những câu ca dao này xuất hiện sau cả
những câu Nguyễn Hưng Quốc đã đưa ra
khởi xướng tranh luận. Hình ảnh một xã
hội Việt Nam bị các thế lực ngoại bang thao
túng ngay trên đất nước mình. Trần Chánh
Chiếu và bạn hữu ông những năm 1906 khi
đề xướng phong trào Minh Tân Công Nghệ chắc
cũng cùng tâm sự! Thực dân cấu kết với Chà
Và (và Hoa-kiều) kiểm soát hầu bao người
Việt bị trị.
Hai
câu ca dao (*) "Vân Tiên ngồi dưới gốc môn /
Chờ cho trăng lặn bóp l... Nguyệt Nga" nói như
Nguyễn Hưng Quốc, là "một cách phản ứng
chống lại thái độ đạo đức
khắt khe, có phần giả tạo của Lục Vân Tiên,
và phần nào của Nguyễn Đình Chiểu", và
nhắm phê bình "quan niệm đạo đức
cũng như cách thức xây dựng nhận vật
của cụ Đồ Chiểu". Vân Tiên "quốc trạng"
triều đình sai đem binh dẹp giặc Ô-Qua, chàng
lạc đường vô tình đến ngay nhà ...
Nguyệt Nga. Sau nhiều năm xa cách, nàng đã lập bàn
thờ chàng, cuộc tái ngộ cả đêm "... ân tình
càng kể càng ưa / mảng còn bịn rịn trời
vừa sáng ngay" mà không xảy ra một tai nạn nào! So
với Kim Trọng-Thúy Kiều, tình Vân Tiên-Nguyệt Nga
"đẹp" và "sạch" hơn, dù
đời hai người sau cũng nhiều éo le, không
trơn tru cho lắm, trước đoạn kết có
"hậu"! Dĩ nhiên, "văn chương
phải đạo" thường gượng ép,
giả tạo, "nhạt". Vì mục tiêu "tải
đạo", các nhân vật Lục Vân Tiên đã trở
thành biểu tượng luân lý do đó mất cả
tự nhiên! Truyện Lục Vân Tiên được
truyền bá sâu rộng trong giới bình dân, cứ "nói
thơ" đạo nghĩa hoài cũng sẽ có lúc có
người làm "thơ" hay đặt vè phê phán
lại Lục Vân Tiên và tác giả của nó, một
phản ứng tâm lý bình thường chê giới có học,
nhà nho vốn đại diện cho uy quyền. Dân gian còn
đặt truyện Hậu Vân Tiên kéo dài thêm chuyện theo ý
họ! Hai ông Vi B. Vương và Hoài Hương (VH 144) có lý
khi cho qua hai câu ca dao đó, người bình dân muốn Vân
Tiên gần gũi họ, một "người"
như họ.
Khi
nhà văn Thế Uyên nhận xét người miền Nam
viết văn "lửa tình rực cháy" và viết
về tình dục "chi tiết thật cụ
thể", ông đã nhìn qua "lăng kính" đã
bị thanh giáo hóa bởi một văn hóa "Tống
nho", "chính thống" của đất ngàn năm
văn vật! Người bình dân miền Nam, họ
thấy thường! Từ thời Trịnh Nguyễn phân
tranh, người miền Nam vì lý do địa lý và chính
trị đã xa cách miền Bắc chính thống từ
tiếng nói đến phong tục. Trong khi người
miền Nam phải đối phó với một miền
đất hoang dã của đồng bằng miền
Đông và Tây lục tỉnh, phải đối đầu
với những thế lực không-Việt (Miên, Pháp), thì
người miền Bắc đất đai đã yên
ổn, đã có thì giờ lo đến cơ cấu, toàn
vẹn hóa hơn, nhưng trong thực tế đã "hình
thức" và "xơ cứng" văn hóa với
đủ diển lễ. Vì thế người miền Nam
thực tiễn hơn, công bằng hơn, trong cả
vấn đề tình dục. Văn viết hay nói của
họ giàu hình tượng và đi thẳng vào vấn
đề hơn là cứ đi vòng ngoài. Người
đàng Ngoài khi bóng gió "đồ này đồ
nọ" hình như thiếu tự nhiên. Người
của miền đất mới nói và viết cốt cho
"đã", còn người miền đất cũ
nhắm cái khéo, cái hay, cái tế nhị và thường
lưỡng nghĩa hay hơn nữa! Nói tục đã
trở thành một nhu cầu tự nhiên, không nói tục
được sẽ bị dồn nén, uất ức. Con
người thường có những nhu cầu bình
thường mà địa vị chính thức không cho phép.
Nhu cầu "xả xú bắp" chẳng hạn. Tôi còn
nhớ những người bạn thời đại
học sư phạm người Nam quen "đ.m." mỗi
khi nói chuyện hoặc vô tình khi đi thực tập,
đã phải tập nuốt nước miếng mỗi
khi hai chữ "thần chú" đó muốn ra khỏi
miệng, chứ nếu không làm sao làm "thầy" khi
ra trường! Nhưng ra khỏi lớp, đâu hình
như vẫn hoàn đó!
Nhà
nho, trí thức, sẽ trốn chạy thực tại,
trốn vào trong con người dân giả, bình dân qua ca dao
tục ngữ. Tưởng cần nhắc là ca dao hay
văn truyền miệng lúc đầu là do mấy ông có
chữ làm ra, thêm bớt, ít ra vào thời chưa có chữ
viết hay chỉ có tiếng Hán. Ngay cả truyện
thơ lục bát dài như Phan Trần, ... đều do các
vị đó nhưng lại ... khuyết danh. Nếu ca dao
là văn chương thì không phải đợi đến
E. Kant và F. Nietzsche đưa ra những lý thuyết mỹ
học cho rằng không nên dùng nhãn quan của đạo
đức để nhìn vũ trụ cũng như
cuộc sống con người, người bình dân từ
lâu đã có loại văn chương chống đạo
đức giả! Nhà nho "ban ngày quan lớn như
thần", phải giữ thể diện như Lục
Vân Tiên nhưng "ban đêm quan lớn tần mần
như ma" thì cũng là chuyện bình thường. Cái
không bình thường là người đọc loại ca
dao phản đạo đức (giả) rồi chê là ...
tục hoặc ... bình dân quá!
Việc
xét Nguyễn Đình Chiểu có phải là nhà thơ lớn,
hình như không đơn thuần là một cắt nghĩa
về thi pháp! Các tác phẩm của ông như truyện
Lục Vân Tiên, các bài thơ và văn tế có giá trị
văn học không? Nếu văn học phải gắn
liền với sinh mệnh của dân tộc, nếu
văn học không thể chỉ là những hình thức hay
nội dung "viễn mơ", nhập cảng, thì các
tác phẩm nói trên của Nguyễn Đình Chiểu có giá
trị và có giá trị văn học; giá trị cả cho
những nghiên cứu về văn hóa, xã hội và lịch
sử: tâm tình và phong cách con người nơi vùng
đất mới, những giá trị văn hóa của
họ, cách xử thế, hành cử của họ, ngôn
ngữ dân gian nói đặc biệt của họ, v.v. Chính
vì Lục Vân Tiên không là Đoạn Trường Tân Thanh,
không là những hình ảnh khéo và đẹp, những
thuyết lớn như "tài mệnh tương
đố", những phổ quát và những mẫu
người muôn đời như Sở Khanh, Kim Trọng,
Hoạn Thư, Mã Giám-sinh, Từ Hải, v.v.. "Thơ Vân
Tiên" chỉ là những lý tưởng phổ quát
của đạo lý làm người mà tác giả muốn
lưu lại cho hậu sinh, những lý tưởng văn
hóa của một đàng Trong bị ngoại bang xâm
chiếm, của một "tuyệt thông" với
"vua cha" ở đất Thần-kinh! "Than là than
bờ cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua, ngơ ngẩn một
phương tớ dại" (Văn tế Trương
Định). Cũng như Giờ Thứ 25 của C.V.
Gheorghiu, Chiến Tranh Và Hòa Bình của L. Tolstoi, For Whom the
Bell Tolls của E.M. Hemingway, v.v., thơ văn của ông
đồ họ Nguyễn cho người viết sử và
người đời sau những chi tiết về
những trận chiến thời thực dân Pháp
đến qua "lăng kính" của ông, nghe kể
lại rồi lòng căm thù giặc mà thành văn.
Nguyễn Đình Chiểu còn cho người đồng
thời và người sau biết quan điểm của
ông về những vấn đề của thời
cuộc, cảnh khổ của người dân, v.v. Sau này,
trong Dương-Từ Hà-Mậu, ông đi xa hơn, phê bình
cả đạo nho và đề nghị vài cải
lương xã hội khi nói về đạo tiên!
Nguyễn
Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên với sứ
mạng phục vụ nhân sinh, với ý thức văn
nghệ phục vụ lẽ phải và nhất là dân
tộc. Nên xem Lục Vân Tiên như là tâm sự của chính
tác giả với những ước vọng không thành, công
danh dang dở, cha mất chức từ khi ông lên 12, mẹ
chết, mù lòa, sống đời và thời không may. Nói
Nguyễn Đình Chiểu "chọn cách đánh giặc
ngoại xâm (...), cốt không thắng mà cốt là
để giải tỏa các xung năng tâm lý" như ông
Đỗ Ngọc Yên (VH 146) thì quả hơi ... lạ!
Có
thể nói văn chương bình dân là một cách
đối kháng hiệu quả chống văn hóa cứng
nhắc của Nho học, và khi người Pháp đã xâm chiếm
Việt Nam, thứ văn chương đó chống
thực dân xâm lược cũng như sau này chống các
chế độ ở hai miền Nam Bắc cũng như
khi đã thống nhất. Miền Nam là đất
thuộc địa sớm đã ý thức bảo tồn
văn hóa cổ truyền, họ đề cao cốt lõi,
tinh túy thay vì hình thức. Vì là việc khẩn cấp, vè,
"thơ", phương ngữ trở thành
phương tiện tiện lợi do đó đã có
nhiều tác phẩm vô danh vì tác giả của chúng biết
sẽ dễ truyền tụng. Trong Nam, các thể văn
này cùng với văn nhàn đàm, tiếu đàm đã là
những phương tiện của người dân bình
thường phê phán thói đời và con người trong xã
hội. Ai đó đã chê - hay phê Lục Vân Tiên, nói theo
Nguyễn Hưng Quốc, qua câu "Vân Tiên ngồi
dưới gốc môn / Chờ cho trăng lặn bóp l...
Nguyệt Nga" là chê con người giả dối,
cứng nhắc quá lố! "Thơ", vè không làm công
việc phê bình văn học, nhưng phê bình những
"điều trông thấy", những nhân vật
văn học, con người, cái đằng sau, cái ẩn
ý của văn chương và nhà văn.
Thế
Uyên, một tác giả của "nghệ thuật vị
nhân sinh" đã nêu nhận xét cho rằng chính trị thay
thế văn chương, chính trị dùng làm tiêu chuẩn
để đánh giá văn học, đã tai hại
đến văn học. Chúng tôi nghĩ văn học
phải bám chặt con người và đời sống do
đó không thể không "chính trị" (dĩ nhiên chúng
tôi muốn nói đến định nghĩa thứ
nhất của chính trị: con người giữa tập
thể). Văn chương tóm lại cũng chỉ là
"lăng kính", là cái nhìn của một người
về thực tại, về sự việc hay con
người. Vị nghệ thuật hay nhân sinh thì văn
nghệ cũng khởi từ ý thức sáng tạo. Nếu
văn học phải đạt đến con
người phổ quát, thì cũng phải từ con
người cụ thể và thời đại. Chính
trị lãnh đạo văn nghệ và văn nghệ
phục vụ chính trị chỉ là phiến diện giai
đoạn và xu thời. Văn chương và cuộc
sống đưa đến tác phẩm lớn như
Chiến Tranh Và Hòa Bình, A Q của Lỗ Tấn, Les Misérables
của Victor Hugo, v.v.. Sứ mệnh của người
viết là phục vụ con người qua nghệ
thuật của chữ nghĩa. Sáng tạo nghệ
thuật là một kết hợp giữa ngoài và trong, giữa
ngoại vật với nội tâm. Trong chiều
hướng đó, Văn
Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của Nguyễn
Đình Chiểu cũng như Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn
Trãi, đã là những áng văn chương tích cực,
phục vụ nhân sinh. Lục Vân Tiên có giá trị của
nó, có hay không có Lục Vân Tiên thì cuộc kháng Pháp ở trong
Lục-tỉnh có thể vẫn thất bại; nhưng
người hôm nay khó có thể phê bình nghiêm khắc
Nguyễn Đình Chiểu. Cái nghiêm khắc dễ khiến
ta rơi vào thái độ tổng quát hóa, cái gì từ
miền Nam đều dở, tầm thường, "tào
lao" như đã từng với đạo Cao Đài,
với "mảng" văn học tiền phong chữ
quốc ngữ, với văn viết của người
Nam, tiếng Việt dùng trong Nam, v.v.
8-1998
Chú
:
(*)
Dân gian trong Nam gọi 2 câu ca dao này là "vè lục bát".
"Vè lục bát" mà dài dòng lại được
gọi là "thơ" gốc gác từ chuyện "nói
thơ Vân Tiên". "Thơ Vân Tiên" thường
được "nói" trước người khác hay
đám đông chứ không "ngâm thơ" một mình
như "ngâm Kiều"!