VỀ TRUYỆN DỊ THƯỜNG,
NHÂN ĐỌC "ĐOẠN ĐƯỜNG HỐT-TẤT-LIỆT"
CỦA LÂM CHƯƠNG
Nguyễn Vy-Khanh
Những
truyện ngụ ngôn, thần tiên, hoang đường, quái
đản hay dị thường đã xuất hiện
từ nhiều thiên niên kỷ trong văn học thế
giới cũng như Việt Nam. Có những truyện
nặng ngụ ngôn, có truyện huyền hoặc, quái
dị, siêu nhiên, triết lý, mang hình thức dụ-ngôn
của Kinh thánh, có không gian tuyệt vời thơ mộng,
có những hí họa phúng thích cuộc đời, có
truyện là hợp loại cả hai ba thể hoặc
hơi rời xa đến gần thể giả
tưởng (science-fiction). Một cách tổng quát, có
thể chia làm hai loại chính: truyện huyền thoại
liên hệ đến bộ lạc, giống nòi, tập
thể, trong khi loại thứ hai, chúng tôi tạm gộp
chung dưới danh xưng "truyện dị
thường" (fantastic), lấy con người làm
đối tượng, dị thường từ
những sự việc và cuộc sống bình
thường. Huyền ảo, hoang tưởng nhưng
không xa thực tại, truyện dị thường ở
giữa trực giác và kinh nghiệm, giữa mơ
ước và thực tế khó khăn, là một phối
hợp huyền sử và thực tại. Huyền sử
chứa đựng những ẩn số văn hóa của
một quá khứ thật và hoang tưởng cũng
bắt nguồn từ tâm thức con người, từ
những xúc tác của cuộc sống trên con người.
Về nội dung, các tác giả kể chuyện
người xưa, chuyện súc vật, cây cỏ, nhưng
đa số đều có ngụ ý, có tâm tình, u uẩn
hoặc nhẹ nhàng, và ý vị hiện tại. Có thể là
chuyện hoàn toàn riêng tư của tác giả hoặc
của một thế giới mà người đọc
không biết đến hoặc không thể hình dung được
nếu tác giả không nói đến. Sau 1986, vì nhiều lý
do lịch sử, xã hội và văn học, thể
truyện dị thường đã nẩy nở, nhiều
tác giả mới, kể cả tác giả đã thành danh
trước đó cũng đã chuyển qua thể này.
Nguyễn Huy-Thiệp, Trần Vũ, Trần Long Hồ,
Hồ Minh Dũng, Nam Dao, v.v. và nay Lâm Chương với
Đoạn Đường Hốt-Tất-Liệt do nhà
Văn Mới xuất bản cuối năm 1998 đã
xử dụng thể loại đặc biệt này. Tác
phẩm của họ như những nhắc nhở
vị thế làm người của mỗi người và
thực tại đất nước quê hương. Chúng
có những bức xức, thao thức, nhiệt tình, văn
chương lôi cuốn, tài tình và nhiều tính thuyết
phục. Dĩ nhiên tác giả chúng phải công chính và trên hết
là tình yêu chân lý và một thành thật trí thức !
Có
thể nói có một hiện tượng truyện dị
thường trong văn học Việt Nam đương
đại. Truyện dị thường trở thành
phương tiện viết chuyện hôm nay, cho phép tác
giả nhìn vào cuộc sống trước mặt, kể
cả những bất thường và phi lý. Qua chúng, tác
giả tỏ thái độ với thời cuộc,
với hôm nay, với quyền bính và kẻ thù. Tác giả
không thể tránh bàn đến tâm lý con người ở
một giai đoạn lịch sử, một giai
đoạn mà tác giả nghĩ đã đến lúc
phải đưa ra ánh sáng, đưa ra công luận, đã
đến lúc mà con người không thể sống như
cũ, nên sống bằng tình nghĩa hơn là sống
một cuộc đời thế gian bị bủa vây
bởi những phỉnh gạt to lớn của tập
thể nhân danh một lý tưởng nào đó. Hôm nay có lý
tưởng tưởng chắc như đá đã rõ ra mù
mờ, trở thành phương tiện cho những ý
đồ tối ám, hèn kém, ... Những con người và
sự việc vẫn hay bị hay được cái nhìn
"sử thi", nhị nguyên, xếp loại là tàn ác, thù
nghịch, quỷ ma,... Nay dưới con mắt con
người hôm nay và các tác giả truyện
dị-thường xếp loại lại, nhìn lại,
họ rơi vào loại đối nghịch. Thiện ác vô
lường và thuyết tương đối
được hiện đại hóa. Qua những việc
và người mà tác giả thấy "có vấn
đề". Viết chuyện hiện thực qua cách
dị thường, các tác giả còn nhắm kêu gọi
cải đổi, giải phóng bằng cách cho thấy
thực trạng của hôm nay, của con người sau
bao lầm lỗi và hy sinh. Ở nhiều tầng lớp xã
hội khác nhau! Chuyện dị thường không
đến từ cốt truyện hãi hùng, mà đến
từ cảnh đời xáo trộn tàn nhẫn, qua cái nhìn
trực giác, thông suốt của tác giả xuyên qua cái bình
thường, cái hiện thực, từ thời gian bị
cắt đứt, từ hiện tại hay từ một
thời điểm có hay không có liên hệ với quá
khứ gần xa.
Trong
Lên Rừng Thăm Bạn, anh Khan sống làm rẫy trên
rừng, xa vợ con, sống "một mình như
người ở ẩn". Nơi đây đời
sống con người khó khăn vì thú rừng hay
đến rẫy phá hoại. Con người lúc nào cũng
trầm tư, lo lắng, "trông giống một hình
tượng cô đơn, im lặng ngồi chịu đựng
với thời gian" (tr. 15). Khan từng bị tù học
tập lâu năm, khi được thả, anh đã
đổi lối sống. Nay anh giữ thế thủ và
mạng sống. Như ngụ ngôn con sáo. Nhưng nào yên, vì
đám heo rừng và khỉ cứ đến quấy phá.
Loài khỉ phá phách cũng như con người, cũng
đi theo bọn, cũng có tiền sát, thứ lớp;
những chiếc thùng thiếc khua động cũng
hết làm chúng sợ sau những lần đầu.
Người tuyệt vọng đành tìm cách bắt khỉ
làm sao để chúng hết còn trở lại quấy phá.
Con nào bị bắt được, người cắt
lông trên đầu rồi sơn màu lên đầu lên
mặt rồi thả: chúng sẽ hết thể nào
nhập bầy trở lại vì những con cùng bầy nay
không còn nhận ra bạn nữa, mà những con bị sơn
càng đuổi theo xin nhập bầy thì lại càng bị
bọn kia cao chạy xa bay nhanh hơn, chúng bị tránh
như những con vật quái đản! Anh Khan tự xem
mình như những "con khỉ người" bị
đồng loại xa tránh: "giữa vùng rừng núi
Việt Nam, có những 'con khỉ người' đang bị
sơn mặt, họ có bảo vệ được
chăng?" (tr. 24). Họ ở đây là Hội Bảo
Vệ Súc Vật thường có ở những xã hội
văn minh Âu Mỹ.
Truyện
Người Khách có một ẩn dụ khác. Xóm Gò Chùa nghèo
khó sống với đầy tai họa bất trắc vì
bị đủ thứ võ lực kiểm soát (liên minh giáo
phái Cao-Đài, Việt Minh, Tây và cả trộm
cướp): con người đày đọa con
người. "Kiểm soát, bảo vệ, tuyên
truyền, trộm cướp cũng đều là kẻ
mượn hình giả danh. Bên ngoài ai dám vô đây lộng
hành... Mạng người lúc bấy giờ rẻ như
heo chó" (tr. 26). Hai Diên đến với xóm như
người khách nhưng sự hiện diện của ông
đã "như giải tỏa được cái áp
lực vô hình đè nặng tâm can": dân ngủ yên hơn,
làng xóm thật an bình. Người khách dù được xem
là "hùm thiêng", lang sói có kiêng dè tạm thời, cũng
có lúc không cãi được mệnh trời, vẫn bị
bí mật thủ tiêu, bởi người cùng giống:
"Không biết phe nào?" (tr. 29). Phe Ác, phe quỷ !
Địa
ngục trần gian hay địa ngục quá khứ bàng
bạc khắp tuyển tập gồm 17 truyện của
Lâm Chương vẫn là chiến tranh. Cuộc chiến
đã tàn nhưng tro vẫn âm ĩ như chưa lụi
tắt và có những mảnh củi có lúc vẫn bừng
lửa cháy, kể cả khi con người đã xa cách
một đại dương. Lâm Chương phê phán mọi
phía. Một bên là những tên đồ tể "nằm
trên bụng đàn bà mà xua quân vào trận mạc. (...) Bao
giờ thấy những phường cẩu trệ bất
nhân, chiếm giữ những ngôi vị trọng yếu
quốc gia, là điềm báo trước một chế
độ suy tàn. Đó là quy luật của mỗi lần
lịch sử sắp sang trang" (tr. 189). Một cuộc
chiến tranh phức tạp, không lằn ranh rõ rệt.
Đoạn Đường Hốt-Tất-Liệt chính là
đoạn trường cay đắng. Những
người lính địa phương phải đối
đầu với một đối phương không rõ
mặt, dùng tình báo điều tra gì rồi thì kẻ thù đích
thực vẫn là bất ngờ. Tên du kích bị trung
đội bắn bị thương không ai khác hơn là
"thằng Hon" con Tám Đê chủ lò đường
trong vùng, hắn trốn lính và suốt ngày mọi
người tưởng hắn chỉ chẻ trúc đan
lồng để đi gát cu. Bạn thù không biên giới,
nhưng hận thù và những cái chết thì lại không
tránh được!
Xóm
Ven Rừng là bức tranh của một vùng xôi đâu mà biên
giới không chỉ ở bìa rừng cứ ngày mỗi
lấn vào sâu mà còn ở lòng người dân. Sự
"chiến thắng" của một bên rồi cũng
không như lòng người mong đợi: "Những
người cùng đi một hướng với ba tôi ngày
ấy, trở về trong sự huênh hoang, nhưng chẳng
giúp ích được gì cho dân trong xóm. Xóm tôi đã nghèo, bây
giờ càng nghèo hơn. Bọn nhỏ chúng tôi đã
trưởng thành, phải cật lực cày xới
đất đai để kiếm miếng ăn từng
bữa. Không có đám trẻ nhỏ nào như chúng tôi ngày
ấy, chạy theo đuổi bắt những trái dầu
rơi rụng, cánh xoay tít mù bay trong gió. Cái trường
học mái tôn bên cây dầu, bây giờ, trở thành nơi
nhốt bò của dân trong xóm. Sự đổi thay lạ
thường này, làm cho cái trường chỉ còn là dấu
tích của chuyện một thời quá khứ xa
xăm" (tr. 75). Trường mái tôn là công trình dân sự
vụ của phe chính quyền cũ và trái dầu không khác
gì những ảo tưởng của người lớn
trong xóm. Thân phận con người bị chiến tranh vùi
dập. Sống giữa những lằn đạn,
"làm người thời này, khổ như chó hoang.
Phải tản cư đến một nơi tương
đối an toàn hơn" (Xóm Cũ, tr. 129). Họ sẽ
phải tản cư nhiều lần mà thảm kịch
cuộc đời cứ vẫn tiếp diễn!
Tàn
bạo của phe kia trong chiến tranh đã trở thành hài
hước, hụt hẫng sau "chiến thắng".
Những mệnh đề "dân tộc sẽ
thắng", "xứ sở quật
cường", "chính
nghĩa", v.v. không đưa đến kết luận
đương nhiên. Sau một dâu bể, mọi lời
nói, hành động, kết luận đều gây suy
nghĩ, có sức mạnh bủa vây làm nhức nhối
những vùng nhận thức quen thuộc hay nếp nghĩ
"chính thức", bình thường đã quen. Mụ Kên
là người của "cách mạng" đã trở
thành sát nhân vì tự trở thành nạn nhân của chính mình,
của huy chương thổi phồng vì nhu cầu. Hai
Quắn trong Giải Quyết Cấp Thời cả
đời hy sinh cho cùng lý tưởng như mụ Kên,
cuối cùng chỉ mơ ước "cái đít có gân
của gái miền Nam" như chị Tư Rô, không
được, bèn dùng đại đít bò trong chuồng
của hợp tác xã. Người Thượng đơn
sơ khi đã bị lợi dụng, họ thấy
"những ai đến với buôn bản vùng cao, mang cái
dáng dấp phi lao động, chỉ biết đứng
nhìn, hỏi những câu ngớ ngẩn, và chỉ trích phê
bình , lý thuyết suông mà chẳng làm được gì,
họ đều gọi là cán bộ" (tr. 21).
"Chiến
tranh như con quái vật khổng lồ, theo nó thì bị nó
ăn nuốt, cưỡng lại thì bị nó chà
đạp. Đàng nào cũng chết, chỉ có
điều chết trước hay sau mà thôi" (tr. 16). Lâm
Chương ở lứa tuổi kinh qua đã nhiều, ông
đã dám nhìn thẳng nói thẳng nhiều trục trặc
khó nói. Anh chuẩn úy mới ra trường nhát gan nhưng
hay liều mạng trong Định Số được
nhiều dịp ca tụng là anh hùng gan dạ. Cái tâm của
Lâm Chương ở đó: thành thật, tự xét, tự
trách trước khi trách người và ngoại giới
cũng như quyền lực và định mệnh
bủa vây. Khi lâm trận, một thiếu uý trung
đội trưởng bị cấp chỉ huy bỏ
rơi, đến lượt ông cũng bỏ rơi
thuộc hạ để thoát thân nhưng khi đã an toàn,
người sĩ quan đó "dửng dưng như
kẻ mất hồn. Không buồn, không vui. Mọi cảm
xúc đã bị tê liệt hết rồi" (Một Vùng
Hung Bạo, tr. 145). Người lính hay người tù
học tập ở Lâm Chương không ăn to nói
lớn, không giả hình cũng không tự cao tự
đại, có chăng là những khuất phục
định mệnh, những bất lực vì bị trói
tay, những tìm vui tạm bợ trong nhục nhã cuộc
đời! Tìm cách sống còn, "dưỡng sinh",
thay vì cứ chắc lưỡi như những con
Thạch Sùng thời đại "nằm trằn
trọc nuối tiếc hoài một thời quyền uy son
vàng đã mất. Cánh cửa quá khứ đã khép lại.
Nhưng cái dư âm vi vu còn đủ sức ném bao
người qua cửa tử. Nuối tiếc và thống
hận là chất cường toan bào mòn tâm phế"(tr.
189), hay trở thành nạn nhân của "sự vô vọng
giết người" vì "không thấy
được ánh sáng phía cuối con đường vô vọng"
(tr. 187).
Trong
chiến tranh, con người bị chà đạp đã
đành, nhưng khi hòa bình đã "vãn hồi", con
người vẫn bị thời đại nghiền nát,
tha hóa đến độ phi lý. Những tàn bạo và bi
kịch nhỏ lớn vẫn còn đó, giữa
người với người! Trong truyện Mây Bay Qua,
người tù học tập được thả về
với người cha và một người con gái vẫn
ao ước thành vợ gã, nhưng hoàn cảnh éo le, trong
đợi chờ, Mây đã phải bán thân. Để
người cha già khỏi buồn, dù "thương
cuộc đời" Khang, nàng đã phải bỏ đi
xa một cuộc tình mới chớm nở.
Trong
Chỉ Còn Một Nơi Trở Lại, một đứa
nhỏ mười hai tuổi vì đánh con một ông xã
ủy mà phải ở tù, đến khi được
thả, về nhà thì người thân đã bỏ vào Nam,
đành "xin vô tù lại" bằng cách đánh cắp
xe đạp đúng ngày "Chúa ra đời để
chuộc tội, cứu rỗi cho loài người"
nhưng đứa nhỏ thì nghi ngờ "Sao cháu vẫn
khốn khổ? Cháu không tin đâu!". Người tù
học tập "nhìn theo cái dáng gầy còm, thất
thểu của nó, nghĩ thầm, không biết bây giờ
Chúa đang ở đâu?" (tr. 68).
Con
người đối với con người "nham
hiểm và gian trá. Họ biến tù nhân thành những con ma
đói, và hạ xuống ngang hàng với súc vật" (tr.
16). Trong Chuồng Người, người tù học
tập đã phải sống chung đụng với tù hình
sự sống như con người thời tiền
sử đến độ ăn thịt sống
để tồn tại. Tù hình sự được
đi mổ lợn được xem như một
đặc ân, do đó "phải nạp cho thằng
đội trưởng hai cục thịt bằng ngón chân
cái. Không có, tụi nó thụi vào bụng cho mà thổ
huyết". Nhưng bằng cách nào? "Thằng Ný móc
họng, ụa mửa. Đồ ăn nhớt dãi, tuôn trào
xuống thau. Thằng bưng thau, bóc lên những miếng
thịt còn dính lòng thòng nhớt dãi, đưa lên miệng,
ăn. Một thằng khác, đang đói, cũng ăn. Có
thằng nhăn mặt: "Gớm quá!" Thằng
bưng thau, nói : "Gớm gì? Từ bụng kia sang
bụng này thôi!" (tr. 176). Ngay cả đồ ăn
người nhà đi thăm đem đến cho tù cũng
theo cùng phương pháp, không thể để dành ăn
từ từ: "Nếu đem vào trại, mấy
thằng đầu gấu, chúng nó giành giật cả.
Thế nên cháu xơi hết tại chỗ" (tr. 176). Và
khi đã ở đáy vực thì con người có
lương tri cũng phải đành đoạn mất
cả lòng thương hại đối với
đứa trẻ tù hình sự: "Không! Tao thương
tao còn chưa đủ. Có đâu thương tới mày.
Thằng quỷ!" (tr. 66). Rồi sau lại tự
xỉ vả mình "Khốn nạn! Nó trở lại tù,
sao tôi lại mừng?" (tr.67). Quelle misère humaine!
Địa ngục trần gian về một khía cạnh
nào đó nằm ngay trong tâm thiện hay ác của con
người! Nhưng trong tập truyện Đoạn Đường
Hốt-Tất-Liệt, vẫn có những tình cảm cao quý
sót lại, dù từ kẻ chiến thắng, như Sao Nhót,
bạn thời tuổi nhỏ của Lâm Sún, nơi riêng
tư đã khuyên bạn thuộc phe "thua":
"Ở lại đây, mày bị chuyện gì, tao không
đỡ nổi. Mày nên lánh mặt đến địa
phương khác, khai man lý lịch, tạm sống một
thời gian, chờ tình hình xem sao. Tao "đánh
hơi" thấy việc xử lý bọn mày không
đơn giản đâu" (Vật Đổi Sao
Dời, tr. 59).
Hoang
dã trong chuyện hiện thực! Thượng Du, Niềm
Thương Nhớ, thượng du tức Hoàng Liên Sơn,
là nơi người thua trận bị vùi dập thân
thế và thể xác. "Ở đây, không đo thời
gian bằng kim đồng hồ. Trưa nghe
bắt-cô-trói-cột kêu trên đầu núi, biết đang
mùa hạ. Đêm nằm nghe cú rúc ngoài đầu hồi,
biết đang mùa đông. Thung lũng ít chịu mặt
trời. Âm khí núi rừng pha trong sương đục,
nhòa nhòa lán trại. Cái lạnh rờn rợn nhiễm vào người,
lâu dần thành quen. Thiên nhiên tập cho con người
biết chịu đựng. Về với thiên nhiên,
thở cùng cỏ cây (...) Quên chuyện ngày trước.
Bỏ chuyện ngày sau. Sống đời hoang dã. Thú
rừng vô tâm, không biết buồn. Ai nặng thất tình
lục dục, dễ bỏ mình giữa chốn thâm
sơn" (tr. 184). "Không vì mặc cảm đọa
đày, mà con người ghét cả thiên nhiên".
Người tù chấp nhận số phận, xem cực
hình hành xác đốn cây cuốc đất như
"một cách tập dưỡng sinh" rồi lâu
đến nỗi anh "tưởng như hồn và xác
chẳng dính dấp gì nhau". Anh trở nên vui sống
với người hoang dã hồn nhiên "thương
những hồn cô quạnh" "về đậu trên
ngọn rừng tru thảm khốc", anh "thấm
thía muốn trở thành người Tày người
Dao", sống giữa những ngọn lữa khói,
"tin bất cứ điều gì huyền bí" vì
"trong tuyệt vọng tinh thần còn có chỗ thiêng
liêng làm chỗ dựa" (tr. 186). Hoang dã mà thấm thía!
Ở đâu những lý tưởng cao siêu mà con
người vun xới? Và văn minh? "Nơi miền cao
thôn bản, súng đạn là thứ duy nhất
tượng trưng văn minh của người miền
xuôi"" (tr. 184). Khi được thả, người
tù như lưu luyến, không muốn rời "vòng
kiềm tỏa" của
trại tù, nơi có những người bạn đã
nằm xuống và thiên nhiên, người bạn mới!
Trong
Quỷ Loạn, thần thánh, hồn ma được
nhiều lần nói đến. Khi con người bắt
đầu thành công như Điệt, tưởng mình là
nhất, mắng cả thần thánh sau một lần
bị "thánh" phạt: "Làm thần, thụ
hưởng hương khói. Không lo vun bồi công
đức phù trì dân làng. Chỉ gây nỗi sợ hãi,
lấy sự hành tội người khác làm điều
linh hiển. Mai sau ta thành đạt, sẽ ra lệnh phá
bỏ miếu này". Khinh đời ngạo thế,
Điệt sẽ thi rớt, trốn lính vào chùa tu cũng
không được lâu vì theo hắn nơi đó
"chỉ là những thứ dung tục thối tha không
ngửi nổi. Giáo chủ đã chết mấy ngàn năm
rồi. Bọn đệ tử đang lao đầu
về địa ngục". Và quỷ đỏ sẽ
hoành hành. "Khí thế Cách Mạng như dầu sôi.
Cuộc đổi dời diễn ra nhanh như
cướp cạn. Nền tảng xã hội bị
bứng tận gốc. Vô lại, đầy tớ, ăn
mày nhảy lên làm ông chủ. Trí phú địa hào bỗng
chốc hóa thành tên đầu đường xó chợ.
Sấm ký rao truyền quỷ loạn. Nhà nhà đóng
cửa. Đêm đêm nghe tiếng ma tru rợn tóc. Quỷ
đỏ hiện hình giữa ban ngày, quấy nhiễu. Dân
tình ta thán. Âm khí xung thiên. Mây mù vần vũ. Mống
trời vắt ngang đỉnh núi. Điềm báo thiên tai
chết chóc...". Khắp nơi là nhà tù, dĩ nhiên
Điệt bị bắt, vẫn giữ tính ương
ngạnh, bị đi làm xâu công trường thủy
lợi. "Thời Cách Mạng, ai mang tiếng Ngụy, ba
đời con cháu không ngóc đầu lên được.
Điệt còn độc thân, quyết không lấy vợ,
tuyệt đường con cái, khỏi chịu cái di
họa đời sau". Ngày kia Điệt vung xẻng
đắp đê chém tét đầu một tên đốc
công, tên kia bắn gục Điệt, lôi trong túi áo có
"bức thư ngắn như một lời nguyền:
"Ta chết, thề làm ma báo oán kẻ phũ nhận
thiên địa quỷ thần". Miếu Thành Hoàng
bị phá bỏ sau đó nhưng những kẻ phá
miếu "bỗng nằm lăn ra, hộc máu mà chết.
Có người nói, chúng ăn bị trúng độc. Cũng
có người nói, chúng bị hồn ma của Điệt
vật chết" (tr. 181). Ma quỷ sẽ tiếp
tục quấy phá người tù nay đã tị nạn ở
xứ người, ma quỷ trở về thật hay
ảo ảnh, hay từ tâm tưởng (Chuyện Không Bình
Thường) ?
Sống
thời nhiểu nhương, nội tâm và ngoại cảnh
mấy khi như một, mấy khi gặp gỡ! Cảnh
vật thiên nhiên cũng tàn bạo như chiến tranh,
như bất khả cảm thông. Thiên nhiên trở thành
những cái bẫy tàn nhẫn, trở thành kẻ thù.
"Chiến tranh đã làm cho con người sợ hãi
cảnh trí thiên nhiên, e dè mọi sự câm nín, lặng im.
Tất cả đều như đang đợi chờ
một đột phá tan hoang.Con người bây giờ,
chỉ muốn làm rạp hết những cỏ cây, san
bằng những gò nổi, lấp hết những hố
hầm để xua đi những rình rập, ẩn
nấp, đe dọa chết chóc hằng ngày" (Một
Vùng Hung Bạo, tr. 137). Khi đã ở chốn tù đày trên
vùng ngược Thượng du, người tù chiêm
nghiệm mới nhận ra "Thời gian lặng lẻ
trôi qua" và thiên nhiên có biến đổi dù chậm
chạp. " "Thiên địa vô nhân". Núi rừng
không vì một ai hết. Trời đất lặng thinh.
Bốn mùa vẫn luân chuyển nắng mưa. Hoa lá trên ngàn
vẫn xanh thắm. Không vì mặc cảm đọa
đày, mà con người ghét cả thiên nhiên" (tr. 194). Vì
thiên nhiên sẽ là nơi trú ẩn của những tâm
hồn bị đày đọa!
Chuyện
cứu rỗi ư? Trong thế giới của
Đoạn Đường Hốt-Tất-Liệt, Chúa,
Phật đều như vắng mặt! Chỉ còn con
người với nhau. Chỉ có tác oai tác quái, không nhân
nhượng! Còn người nữ? Nếu người
nữ của Nguyễn Huy Thiệp là tinh hoa, là tình
người, là cứu rỗi, thì với Lâm Chương,
người nữ như bóng mờ, có khi như một ám
ảnh hay ham muốn trong hoàn cảnh bất khả dĩ
như chị Tư Rô với Hai Quắn trong Giải
Quyết Cấp Thời, như chị Ban đẫy đà
trong Xóm Cũ. Riêng cô Năm trong Mây Bay Qua là một cứu rỗi
trễ tràng, bi đát, con người bị hoàn cảnh vùi
dập ngay cả trong tình cảm!
"...
Thế nhân ơi, đổi đời, trông thấy
mặt
trời chân lý cháy như rơm" (tr. 95).
Tác
giả triết lý về lịch sử, tuyên chiến
với độc quyền chân lý, dù giọng văn nhẹ
nhàng, dù với giọng của kẻ thua thiệt.
Đề tài kỳ dị hay bất-bình-thường, chi
tiết hoang đường hay có-thể-có, tác giả dùng
những hình ảnh khi ảo khi thực của đời
sống để phê phán hay đập vỡ những
ảo tưởng. Truyện dị thường không
ngừng ở một vài chi tiết, chúng đi tới cùng
nguyên lý, căn nguyên, đụng tới bản chất.
Với mục đích đưa ra ánh sáng những kinh
nghiệm của quá khứ, dù là của một thời
đại vừa trãi qua, tác giả cố đưa ra cái
hằng số, cái bất biến từ những sự
việc và biến cố lịch sử và thời sự,
cố đưa ra cái chân lý bất biến của con
người dù ở dưới chân trời nào. Tác giả
thể loại này còn có thể "xúc phạm"
người từng cùng phe, người trên hoặc
người đã chết - những anh hùng và những
người đã gieo nhân, nghiệp. Các truyện dị
thường có giá trị dự báo lịch sử, và giá
trị báo động cũng như nhận định
lại lịch sử, từ những tro tàn của quá
khứ và huyền sử. Sự thật lịch sử có
thể cần đến thời gian dài, nhưng văn
chương có thể đóng vai trò đặt vấn
đề lịch sử gay gắt và nhanh chóng hơn,
nhờ tro chưa tàn, lửa lòng chưa nguội. Văn chương
"giải mã" lịch sử sớm dù ít nhiều
chủ quan và đầy cảm tính.
Hoán
chuyển dị thường của thực tại vào
văn chương, nhiều dị thường của
cuộc đời tưởng bình thường đã
được Lâm Chương đưa ra trước
công luận. Nói chung, ngòi bút ông cẩn trọng và nhạy
bén, xuất từ kinh nghiệm sống. Giọng văn
đơn giản, trong sáng, dĩ nhiên bên trong chất
chứa nhiều phức tạp và tầng lớp tâm linh.
Chính kinh nghiệm và tâm cảm chân thành của tác giả
đã đưa đến sự tinh tế, cô
đọng. Như đoạn tả sự việc
"thân bị kiềm chế, mà ý chí thì phất phơ
như chuyện đùa. Tưởng như hồn và xác
chẳng dính dấp gì nhau". Một cai tù đã phê bình
cách lao động khá "thiền" của tù cải
tạo: "Giơ cuốc lên, cò ỉa. Hạ cuốc
xuống, mối xông". Nhưng anh tù lại lấy làm lý
thú vì câu nói ngộ nghĩnh mà quên cái hậu quả tai
hại sau khi bị phê bình. Anh tù đã sửng sốt vì câu
phê bình đó. "Diễn tả động tác chậm,
không có cái chậm nào bằng. Từ từ giơ cuốc
lên, chậm như ngừng lại, thời gian lâu
đủ để con cò đậu trên cái cuốc và
ỉa. Hạ xuống cũng chậm, đến nỗi
trước khi nhấc cuốc lên, thì mối đã xây thành
tổ. Một lối diễn tả độc đáo.
Rất bình dân mà cũng rất tuyệt vời." (tr.
188-189).
*
Thể
truyện dị-thường đương đại
mở ra một chân trời mới, cho người
viết cũng như người đọc, một
tự do văn chương tuyệt vời! Các tác giả
đã chứng tỏ tài huyễn hóa văn chương,
như một trở về với người xưa
văn hóa cũ, với nền tảng, nhưng vẫn là
một thẩm mỹ văn chương mới, chứ
không phải chỉ vì muốn trốn thực tại hay
tránh những vấn đề của xã hội hoặc
những tranh luận khoa học nhân văn cấp bách
của hôm nay. Thực vậy, truyện
dị-thường là cách bám chặt thực tại có
hiệu quả lớn, bám và định nghĩa lại các
quan hệ. Ban đầu chúng có vẻ là hình thái hình thành
bởi ám ảnh quá khứ hoặc ảo tưởng
của tập thể. Đám đông không thể sáng
suốt nhận chân ra cái ám ảnh đang hủy hoại
tập thể, họ sẽ có thể mở mắt
nếu phải đi đường vòng qua ngã văn
chương, qua ngã truyện dị-thường. Thể
này do đó có thể nói là dấu hiệu của một xã
hội trưỡng thành, đang-trưỡng-thành,
trưỡng thành khi tự mở mắt với những
hài kịch nghĩa luôn bóng bẩy.
Khác
với văn chương "minh họa, sử thi" và
"tâm lý chiến", truyện dị-thường có
thể không phục vụ cho một ý thức hệ hay tín
ngưỡng, nhưng tự nó, loại truyện này nuôi
dưỡng nhiều tin tưởng về một thời
đại dù bị lột mặt nạ nhưng chưa
chắc có thể thay thế. Truyện dị-thường
dùng những chiếc mặt nạ làm nên bởi thực
tại tái dựng, cốt để dễ tra vấn, làm
rung chuyển chính nền móng tưởng vững chắc,
mà không hẳn có thể đưa ra những thay thế.
Truyện dị-thường do đó hình như có vẻ
liên hệ với những giai đoạn giao thời,
khủng hoảng, con người và tập thể phải
tìm lại bản ngã, khi mọi giá trị đã gẫy
đổ. Nước Việt Nam sau 1986 đã cần có
"những ngọn gió Hua-Tát" thổi mạnh trên
một xã hội trì trệ, dở bết, để
giải phóng con người khỏi những bế tắc
của ý thức hệ và văn hóa lỗi thời.
Ngọn gió "truyện dị-thường" chứng
tỏ sự trưỡng thành tái sinh của xã hội
đó. Cũng như Tướng Về Hưu, Con Gái
Thủy Thần, Những Người Thợ Xẻ, v.v.
của Nguyễn Huy Thiệp, Ông Kỳ Lân, Áo Thanh Cao, Sư
Phụ, Thầy Bắt Bóng, v.v. của Trần Long Hồ,
Lên Rừng Thăm Bạn, Thượng Du, Niềm
Thương Nhớ, v.v. của Lâm Chương đã
mở rộng thế giới dị thường
đồng thời đẩy con người vào vực
tối của lý trí, đã cung cấp cho tưởng
tượng tập thể với những quỉ quái và
địa ngục mà bình thường không ai dám nghĩ tưởng
đến. Đáng sợ, nhưng chính những con ma này
đến để giải phóng những hãi sợ
tập thể, cũng là dịp khiến người
viết phải tân tạo nghệ thuật thẫm mỹ
của mình, hiện đại hóa văn chương. Thành
ra truyện dị-thường là một giải phóng!
Tác
giả truyện dị-thường có thể mơ
mộng thiết tha hay nghiêm khắc lạnh lùng, cái chủ
quan của tác giả vẫn có thể động
đến nhiều người. Mặt khác, tác giả
không những "thấy" và "hiểu" con
người và việc đương đại, ông/bà còn
phải đồng cảm, thấu hiểu, "dính"
vào người và việc đang là đối tượng
của tác phẩm. Của người ở trong cuộc!
Truyện hư cấu hay giả định, độc
giả không cần biết bao nhiêu phần trăm sự
thật hay hư cấu, họ chỉ cần "theo"
văn chương tác giả, "tin" vào kinh nghiệm
của tác giả! Mặt khác, truyện dị
thường phúng thích và châm biếm chính trị và xã
hội, Đoạn Đường Hốt-Tất-Liệt
có yếu tố khả dĩ "phiền" chế
độ vốn nghi ngờ mọi trào phúng, hí họa ngoài
những minh-họa-được-phép.
Điểm-đến
của Đoạn Đường Hốt-Tất-Liệt
theo chúng tôi là đã gióng lên tiếng nói đích thực
của con người hôm nay, cho bây giờ và mai sau, khi còn
có thể lên tiếng và sau một thời gian đã không
thể lên tiếng. Truyện của Lâm Chương như
có sức mạnh giải thoát của tâm thức, tâm
thức ông, tâm thức những người cùng cảnh
ngộ và "kinh nghiệm" như ông. Thay vì tụng
A-di-đà hay lạy-Chúa, Lâm Chương lên tiếng nói
của ông qua nghệ thuật viết của con người từng
sống trong bùn đen của những cơn kinh hoàng
đất nước, của chiến tranh, của
trại cải tạo, trở về nhà tù lớn và
lạc lõng giữa một nước hợp chủng xa
lạ! Tác giả đã xử dụng ngôn ngữ như
hệ thống tín hiệu và xử dụng văn
chương nghệ thuật như khả năng của
cảm xúc. Lâm Chương nhận thức được
bi hài kịch của cuộc đời và ông chia xẻ
với người đọc, có người cùng hoàn
cảnh, tâm cảnh, với một ngôn từ trực
tiếp dù phải dùng dụ ngôn, hình ảnh, v.v. Chính cái
dị thường đã đưa người
đọc tìm lại, nhìn lại, nhận chân những
thực tại của dời sống bình thường và
của vũ trụ nhân sinh. Trong truyện dị
thường, ngôn ngữ thường là một hệ
thống tín hiệu cao độ với những ẩn
dụ đa nghĩa. Đọc truyện của Lâm
Chương không thể ngừng ở câu chuyện hay khúc
ký ức đó. Người đọc phải hiểu cái
tiềm ẩn sau những sự việc, hành động
dù bình thường đến thế nào, hoặc cái nguyên
nhân hoặc hậu quả không thể tả. Khi
người đọc như bị bỏ rơi vì
chuyện lửng lơ thì biết đâu đó là cái Vô ngôn,
cái thông điệp, cái nhắn nhủ. Người
đọc Đoạn Đường
Hốt-Tất-Liệt bình thường sẽ thương
cảm thân phận con người, người Việt Nam
một thời, nhưng nếu tâm cảm xâu xa sẽ
nhận ra cái tâm của tác giả, ông nói với mọi
người mà như đồng thời ông tìm tri kỷ!
Những truyện khác của Lâm Chương đăng
trên các tạp chí gần đây như Gió Ngược,
Những Ngày Mắc Cạn, Cận Kề Biên Giới
Tử Sinh, ... cho thấy ông
càng đi sâu vào ngõ kiếm tìm này, xét con người vì con
người thay vì phân biệt nhị nguyên, bạn và
địch !
*
Truyện
dị thường hiện đại trở nên một
hiện tượng và là một nghệ thuật thẫm
mỹ của phúng thích mơ mộng là chính thể loại
tiên báo chủ nghĩa biểu hiện đương
đại, một loại thẩm mỹ hiện
đại, một nghệ thuật mời gọi tác
giả cũng như độc giả cùng sống một
kinh nghiệm của quá khứ, một kinh nghiệm ở
biên giới của thực và giả, giữa hợp lý và
phi lý, giữa bi và hài, giữa xấu và đẹp,
giữa sướng khoái và hãi hùng, qua trung gian các nhân
vật của tác phẩm. Một sống chung nhiều khi
rất căng thẳng hay gây ra những cái hụt hẫng
giữa phát và nhận, giữa bày và đón. Vậy là sau
1986, văn chương Việt Nam như cũng góp
phần vào việc tra vấn quá khứ để tìm
lại năng động đang-tìm-lại của tập
thể. Phải chăng đây là nguyên lý "cùng tắc
thông!" đã được nói đến trong
Đạo đức kinh?
Old
Quebec, 12-1-1999