B̀NH-NGUYÊN LỘC VÀ T̀NH ĐẤT
Nguyễn Vy-Khanh
B́nh-Nguyên Lộc tên
thật Tô Văn Tuấn, sanh và mất cùng ngày 7 tháng 3,
thọ 73 tuổi (1914-1987). Sự nghiệp văn hóa
của B́nh-Nguyên Lộc khá đa dạng, ông viết văn
làm thơ, rồi làm báo, nhă xuất bản và cuối
cùng làm nhà nghiên cứu tiếng Việt và nhân chủng
học. B́nh-Nguyên Lộc là một trong những nhà văn
trội bật của ḍng văn chương lục
tỉnh. Ngoài bút hiệu B́nh-Nguyên Lộc ghi dấu quê
hương Đồng Nai, ông c̣n kư Phong Ngạn, Hồ
Văn Huấn, Tŕnh Nguyên và một số bút hiệu ngắn
hạn khác.
B́nh-Nguyên Lộc làm công
chức Sở Kho bạc ở Thủ-Dầu-Một
rồi Sài-G̣n (1935-1945) trước khi gia-nhập kháng
chiến chống Pháp. Ông theo kháng chiến, năm 1949
bỏ về thành, "kháng chiến thành" - bỏ không
trở lại làm công chức cho Pháp. Từ đó, ông viết
báo rồi làm báo, chủ biên tuần báo Vui Sống (1959), mở nhà
xuất bản Bến Nghé và
viết truyện. Sinh trưởng ở làng Tân Uyên (Biên
Ḥa), "lục tỉnh" từ bút hiệu và tên nhà
xuất-bản của ông, Bến Nghé, ông có bài đăng
báo từ năm 1943 (truyện Câu Dầm, tuần báo Thanh Niên, Sài-G̣n) và đă
nổi tiếng từ 1950 với tập truyện ngắn
Nhốt Gió (Nxb Thời Thế). Tập
truyện và tùy bút đầu tay Hương Gió Đồng
Nai viết xong năm 1942 (khởi từ 1935) nay chỉ c̣n
dấu vết một vài bài đă đăng báo và tập
truyện dài Phù Sa (viết
năm 1942, đăng báo Thanh Niên năm 1943 với
tựa ‘Di dân lập ấp’, và tạp chí Nhân Loại), viết
dở dang, là những gửi gấm tâm sự của ông -
ông muốn làm sống lại cuộc Nam tiến vĩ
đại của đồng bào Nam-Ngăi để mở
mang bờ cơi miền lục tỉnh, qua chuyện những
người tiên phuông đă khai phá làng Tân Uyên bên bờ sông
Đồng Nai cũng là quê hương của ông. Ông nổi
tiếng v́ truyện ngắn hơn là tiểu thuyết và
tác phẩm của ông gợi lại cảnh vật quê
hương, đất nước như ông đă có
lần xác nhận: "Văn tôi bắt nguồn từ
những cảnh đẹp của quê hương và ḷng
nhớ nhung tha thiết của tôi với nó, chớ không
phải v́ ái t́nh, v́ yêu đương tác động..."
(1). Chỉ lên Sài-G̣n sinh sống, làng Tân Uyên của ông không
xa xôi ǵ mà đă khiến ông nhung nhớ! Ngay từ những
sáng tác đầu tay và các truyện trong tập Nhốt Gió, ông đă lộ rơ
thứ t́nh đặc biệt này, h́nh như nặng ở
những con người phải sống lưu-xứ.
Sơn Nam khi nói về tập truyện Nhốt Gió của B́nh-Nguyên Lộc đă nhận
xét "... tác giả viết Nhốt Gió với thái
độ nồng nhiệt yêu đời của một
người nhớ quê, nhớ dân tộc..." (2).
Thật vậy, như chúng tôi
sẽ tŕnh bày, gần như toàn bộ tác-phẩm của
B́nh-Nguyên Lộc, văn thơ cũng như
sưu-khảo, biên-tập, đều xoay quanh t́nh quê
hương đất nước, đặc biệt t́nh đất!
Trong giai đoạn
văn học miền Nam 1954-1975, B́nh-Nguyên Lộc đă
xuất bản các tập truyện ngắn Kư Thác (Bến Nghé, 1960), Mưa
Thu Nhớ Tằm (Phù Sa, 1965), T́nh
Đất (Thời
Mới, 1966), Cuống Rún Chưa Ĺa (Lá Bối, 1969; năm 1987, nhà Văn Nghệ ở California tái
bản nhập chung tập T́nh
Đất), Đèn Cần Giờ (Xới Đất, 1968) và Quán Bên
Đường (?). Ngoài ra, ông có tập
Tân Liêu Trai (kư Phong Ngạn; Bến Nghé, 1959), Tâm Trạng Hồng
(truyện vui; Sống
Vui, 1963), và hai tập bút kư Những Bước Lang Thang Trên
Hè Phố Của Gă B́nh-Nguyên Lộc (Thịnh Kư, 1966) và Thầm
Lặng (Thụy
Hương, 1967).
Về tiểu-thuyết
và truyện dài, ngoại trừ Đ̣
Dọc (Bến
Nghé, 1959), các tập tiểu
thuyết c̣n lại có tính cách b́nh dân v́ phần lớn
viết đăng từng kỳ (feuilleton) trên các nhật báo, riêng
các tựa đề cũng đă nói rơ : Gieo Gió Gặt Băo (Bến Nghé, 1959), Quán Tai Heo
(1960) (3), Nhện Chờ Mối
Ai? (Nam Cường,
1962), Ái Ân Thâu Ngắn Cho Dài Tiếc Thương (Thế Kỷ, 1963),
Hoa Hậu Bồ Đào (Sống Vui, 1963),
Bí Mật Của Nàng
(1963), Bóng Ai Qua Ngoài Cửa
(1963), Nửa Đêm … Trảng
Sụp (Nam Cường,
1963), Mối T́nh Cuối Cùng (Thế Kỷ, 1963), Xô Ngă
Bức Tường Rêu (Sống Vui, 1963),
Đừng Hỏi Tại Sao (Tia Sáng, 1965), Trâm Nhớ Ngàn
Thương (tiểu
thuyết đăng báo Kich
Ảnh năm 1965; Miền Nam,1967), Một Nàng Hai Chàng (Thụy
Hương, 1967), Uống
Lộn Thuốc Tiên (Miền Nam, 1967), Nụ Cười Nước Mắt Học Tṛ
(Trương Gia xb, Miền Nam tb,1967), Diễm Phượng (Thụy Hương, 1968), Sau Đêm Bố Ráp (Thịnh
Kư, 1968), Món Nợ Thiêng Liêng (Ánh Sáng, 1969), Khi Từ Thức Về Trần (tân truyện; Văn
Uyển, 1969), Nh́n Xuân Người Khác (Tiến
Bộ, 1969), Tỳ Vết Tâm
Linh (Sống Mới), Cơi Âm Nơi Quán Cây Dương (truyện dài t́nh cảm liêu
trai; Mây Hồng, 1972), Lữ-Đoàn Mông Đen (t́nh cảm xă
hội, Mây Hồng, 1972),
v.v.
Nhà văn B́nh-Nguyên Lộc
có hai kỷ lục, một là về viết feuilleton cùng lúc
cho 11 tờ báo ra hàng ngày (‘nhựt tŕnh’) năm 1957 và hai là
về số tác-phẩm xuất-bản năm 1963. Ông
cũng thuộc vào số nhà văn có số lượng lớn
tác-phẩm đă đăng báo hoặc viết xong mà
chưa xuất bản và phần
lớn tác phẩm của ông đă bị thất lạc
theo các biến cố lịch sử (1945-1949, 1975) và
gia-đ́nh (1985). V́ hoàn
cảnh đất nước, ông đă bỏ Tân-Uyên
định cư ở Thủ-Dầu-Một (việc làm 1935, kháng chiến 1946)
rồi Sài-G̣n, và đến tháng 10-1985, bỏ nước
di-cư sang Hoa Kỳ, ở vùng Sacramento CA và qua đời
tại đó. Hai năm cuối đời ở xứ
người, ông đă cộng tác với một số báo
và tạp chí như Dân Việt,
Việt Luận, Làng Văn, Văn, Nhân Văn, Lửa
Việt, Đời, Thằng Mơ, Việt-Nam Nhật báo,
v.v. hoàn tất tập hồi kư Nếu Tôi Nhớ Kỹ và bắt
đầu tập hồi kư thứ hai, Sông Vẫn Đợi Chờ, nhưng
chưa xong th́ ông mất v́ huyết-áp cao. Hồi kư Nếu Tôi
Nhớ Kỹ đă được B́nh-Nguyên Lộc
cắt thành truyện ngắn Mưa
Thu Nhớ Tằm in trong tập cùng tựa. Truyện Kinh
Tà Bang cũng là một phần của hồi kư này,
được tác-giả lấy ra khi tái bản tập
Cuống
Rún Chưa Ĺa ở ngoài
nước (1987).
Nhà văn
Truyện dài nổi
tiếng nhất của B́nh-Nguyên Lộc và cũng là tác
phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp văn chương
của ông là cuốn Đ̣
Dọc đă được giải thưởng
văn chương năm 1960. Đ̣
Dọc là bức tranh xă hội miền Đông Nam vào
giữa thập niên 1950, những cảnh sống sẽ
sớm mất sau đó. Tiểu thuyết về cuộc sống di dân
như những chuyến đ̣ dọc của gia đ́nh ông
bà Nam Thành cùng bốn cô con gái (Hương, Hồng, Hoa, Quá, Thơm), từ Bạc-Liêu thuộc miền Tây lên Sài-G̣n;
ở Sài-G̣n, ông bà buôn bán
va-li sống nhờ lính Tây thuộc địa, nay Tây thua
phải rút khỏi Việt Nam, buôn bán bắt đầu khó
th́ Sài-G̣n lại có giao tranh giữa các giáo phái. Ông bà bèn
bỏ Sài-G̣n dọn về trang trại - Thái Huyên Trang,
ở Thủ Đức gần suối Lồ-Ồ.
Họ không có lựa chọn khác dù bốn cô con gái tuổi
từ 22 đến 28 đều chưa chồng. Bốn
chị em hay đi dạo xóm, dĩ nhiên sẽ có những
nhân vật địa phương xuất hiện tán
tỉnh làm quen. Những đụng chạm giữa quê và
tỉnh:
"Quờn là một
công tử nhà quê, hạng người mẫu. V́ ở
gần thành phố quá, mặc dầu thành phố ấy
chỉ là một quận lỵ, công tử Quờn lại
mang thêm một cố tật dĩ nhiên là muốn thành
người thành thị. Thành không được, Quờn
lai căn một cách dị hợm với những bộ
bi-da-ma màu hường, màu xanh lá cây mà cậu mặc măi
từ sáng đến tối, từ trong buồng ra
đến quận lỵ. (...) Từ ngày xóm tiếp
nhận nữ khách mới th́ cậu xức nước hoa
chế tạo ở Chợ lớn và nhét mù xoa nhỏ có
thêu chéo xanh xanh đỏ đỏ trên miệng túi bi-da-ma.
Cậu diện thêm một cây đàn băng cầm, cứ
chiều chiều xách nó ra đường, không khảy v́
chưa biết chơi, nhưng cắt nghĩa lu bù về
nhạc cụ ấy, với đám trẻ con bu quanh
cậu. (...) Trong cái lần đầu ấy, thấy
Quờn liếc lén mấy chị em, Hoa tấn công ngay:
- Chào cậu hai. Đi
dạo mát với chị em tôi chơi, cậu. (...)
Quờn đứng
chết sững và ngậm câm, c̣n hai cô Hoa và Quá th́ rũ ra
cười; cô Quá cười no rồi nói:
- Hay là cậu mặc áo
hường rồi chê áo đen của chị em tôi mà không
muốn đi chăng? (..).
Một bữa khác,
được nói chuyện với mấy chị em Hoa,
Quờn sẽ để lộ cái "dốt" :
"Quờn mặc
bi-da-ma bằng vải ú màu xanh lá cây, đầu chải
brillantine Chợlớn sực nức mùi chanh, cổ đeo
giây chuyền vàng khè, tay nặng trịu nào lắc vàng, cà rá
vàng và đồng hồ cũng bằng vàng. (...)
- Độ rày cậu làm
ǵ, cậu hai? Hoa lại hỏi.
- Cũng hổng cần
làm ǵ, à tôi có tự túc một bầy gà Huê-kỳ, coi bộ
tương lai quá khứ?
Cả bốn chị em
đều ngạc nhiên, không hiểu cậu ta nói cái ǵ mà
lại tự túc và có tương lai quá khứ?
- Tự túc là ǵ cậu?
Hương hỏi thật t́nh.
- Tự túc là nuôi, chớ
là ǵ.
- Vậy hà, c̣n
tương lai quá khứ?
- Tương lai là
tương lai, c̣n quá khứ là quá sá. Tiếng mới mà. Tôi
nghe họ nói hay quá, nên tôi bắt chước dùng theo.
Đời bây giờ họ bày ra nhiều tiếng mới
hay lắm. Thí dụ phạm tội, họ nói phạm vi.
Thù vặt họ nói cá nhân, nghe hay quá khứ.
Hoa và Quả núp sau
lưng hai chị mà cười đến chảy
nước mắt. (...) (4).
V́ ở gần
đường thiên lư nên hay xảy ra những tai nạn
xe cộ và ba trong bốn cô con gái Thái-Huyên Trang sẽ
gặp được người ưng ư trong số
những thanh niên bị tai nạn xe.
Về truyện ngắn, tập Kư Thác (1960) gồm
nhiều truyện đặc sắc của B́nh-Nguyên
Lộc. Rừng Mắm đưa người đọc
trở lại thời khai khẩn miền đất
mới. Hồn Ma Cũ, Rung Cây Dừa, Người Tài
Xế Điên, … vẽ những cảnh đời và
nơi chốn đă dần biến mất. Hồn Ma
Cũ, Ba Con Cáo, Đôi Bạn Mắc Hoa Vông, Ba Sao Giữa Trời là những
tuyệt tác đầy ngạc nhiên thích thú (lời quảng cáo tái bản ghi Kư Thác gồm "những truyện được
đa số trí thức ưa thích BCC, RM, HMC, KT, ... trong
đó tác-giả đă kư gởi cả tâm-tư
khuyến-động của ḿnh"). Một đoạn trong Hồn Ma Cũ : "... H́nh ảnh uống cà phê
bằng dĩa này, như bấm vào nút điện, và
cả bộ máy được huy động. Những
người của dĩ văng như hồn ma, lũ
lượt kéo qua trước mặt chàng. Hồn ma cũ
ấy chỉ hiện về được trong cảnh
náo nhiệt này là v́ có cuộc trùng phùng cơ hội như
hôm nay: thời gian, nơi chốn, màu sắc, h́nh ảnh,
mùi vị, tiếng động, âm thanh; tất cả
những thứ ấy đủ mặt, họp nhau
để huy động kư ức của chàng" (bản
Văn Nghệ 1986, tr. 87).
Trong Rừng
Mắm, qua nhân vật ‘thằng Cộc’, tác-giả đă trở về thời Nam
tiến khẩn hoang, vẽ lại đời sống khó
khăn của những người di dân ở miền Đông. Vùng đất Ô Heo, không gian
mênh mông, c̣n đồng loại th́ vắng bóng, ba thế hệ đều
sống như vậy và để sinh tồn, họ
phải chống chọi với thiên nhiên, chiến
thắng rừng tràm, để lập đất, lấn
ra biển. Ngay từ bước đầu, “Ông nội nó với tiá nó
đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch. Gió
thổi vô rừng và lửa, như con vật khổng
lồ, đă táp một cái vào vào khối thịt xanh um của
biển rừng tràm này. Thành ra ruộng nhà của nó mang
một h́nh tṛn kỳ dị, không tṛn đều đặn
v́ không ai chỉ huy được sự cháy rất là
rắn mắt của ngọn lửa.
Cộc nh́n ruộng
ḿnh một hơi rồi cười khan lên. Đám rừng
bị khoét một lỗ để làm ruộng, trông như
đầu tóc trẻ con được mẹ cạo,
nhưng mới cạo có một mảng th́ có chuyện
gấp, bỏ dở công việc; đứa trẻ bị
chúng bạn chế nhạo là đầu chó táp. Lúa ruộng
chín, cây lúa cao quá, ngă rạp xuống để ḷi trăm
ngàn gốc tràm lên, trông như ai đóng cọc để cất
nhà sàn; năm xưa đốt rừng nhưng không
đủ sức đánh những gốc tràm tươi rói
không cháy được nầy, tiá thằng Cộc đành
cấy lúa giữa những gốc ấy, măi cho đến
ngày nay mà gốc vẫn chưa mục. Tía nó nói mười
năm nữa tràm chết cũng vẫn c̣n đưa cẳng
lên như vầy. Sau lưng Cộc là những rặng tràm
bị cháy sém dưới trận lửa khai hoang, không
chết ngay, nhưng "CHẾT NHÁT“, cứ mỗi năm
chết lần ṃn thêm vài mươi cây. Mấy hàng tràm
đầu nám đen và trụi nhánh như cột nhà cháy,
căm hận nh́n chiếc cḥi lá xa tít mù dưới mé
rạch đang chứa chấp kẻ thù đă lấn
đất của chúng, đă sát hại chúng.“ (tr.13-14).
Nhân vật
trong Ba Con Cáo gồm một cô gái ăn sương
(hồ ly), một tên trộm cắp (Sáu Sửu) và một
con cáo, "cả ba con cáo đều có một nỗi
băn khoăn chung là cả ba đều sợ: con cáo chánh
hiệu con ... cáo th́ sợ chó bẹc-giê, con cáo già sợ
Công An, c̣n con hồ ly cáo cái th́ sợ lính kiểm
tục" (tr. 43). Sống trên mồ mă, cả ba ‘con cáo’
khi cần nhau th́ tỏ ra có t́nh có nghĩa nhưng cũng
dễ ‘cạn hết chất người’ phản
nhau khi bản năng sinh tồn buộc phải ra tay.
Một cơi nhân gian của Sài-G̣n vào giữa thế kỷ XX!
*
Tập Mưa Thu
Nhớ Tằm (1965) gồm 16 truyện và một
kịch ngắn mà theo lời
tác giả ở đầu truyện Mưa Thu Nhớ Tằm, phần lớn các truyện trong
tập đă được viết vào mùa Thu 1956. Những mảnh đời và ḷng
người trước những nghịch cảnh và
đổi thay của thời gian. Miền Nam sống
động qua một số phong tục địa
phương và dấu chân thời gian, nhất là qua
chuyện tuổi già trong các truyện Tre Phải Tàn và
Quyển Gia Phổ. Truyện Mưa Thu Nhớ Tằm
kể chuyện văn hóa nông nghiệp gốc: bác Y từ
một làng quê Điện Bàn, Quảng Nam vô Sài-G̣n làm công
nhân trong nhà máy dệt, bác vẫn nhớ quê, nhớ nghề
trồng dâu nuôi tằm bác đă quen. Bác trồng
trước sân cây dâu, và những khi trời mưa, v́
thương tằm bác cầm nón ra che mưa cho dâu -
cảnh của ca dao địa phương Nam-Ngăi mà
tác-giả ghi ở đầu truyện:
"Thương tằm cổi áo bọc
dâu,
Ngỡ tằm có nghĩa
hay đâu bạc t́nh“
Trong Quyển Gia Phổ, Khoa, nhân vật nhiều kinh nghiệm
sống nên cái nh́n thực tế nhưng khác người,
đă cắt nghĩa cho Thụ và Tồn về những
thói quen mà có người, nhất là những người
từ Đàng Ngoài vào đất mới lập-cư
nghĩ là trật tự cũ hay phong-tục
truyền-thừa từ nhiều thế hệ không thể
bỏ; và khi quyển gia phổ ḍng họ bị cháy thành
đống tro tàn: "Anh Tồn anh ấy khổ sở
thế v́ quyển gia phổ ấy giúp ảnh bằng
cớ để mà tự hào về ḍng họ cổ
nhứt miền Nam của chúng tôi: c̣n mồ mả những
mười hai đời và gia phổ chép những
mười lăm đời. Ảnh tự hào rồi
mải vướng bận v́ những bảo vật
ấy. T́nh quyến luyến ấy theo tôi cũng không
hại ǵ cho lắm. Ác một cái là nó kéo theo cả bầy
lũ những t́nh ư khác, cái nào cũng cổ kính như ngôi
mộ đóng rêu..." (tr. 203). Giá trị quyển gia
phả không khác ǵ những h́nh dạng biến thể
của bánh chưng, bánh tét hoặc ảnh tượng
chưng bàn thờ. Ở đây, tác giả tỏ ra
chống lại thái độ bảo thủ tột cùng,
việc cứ khư khư giữ lấy và cả tôn
thờ những cái đă thuộc về quá văng, cũng
như chống lại tâm lư sợ tiến hoá cũng
như kỹ nghệ hóa đất nước của
buổi giao thời đó!
*
Tập Cuống Rún Chưa Ĺa (bản 1987 nhập chung
tập T́nh Đất, 17
truyện) thêm những truyện về t́nh đất và t́nh yêu
quê hương. Các truyện trong tập như Những
Đứa Con Thương Của Đất Mẹ, Lửa
Tết, Phân Nửa Con
Người, Chiếc Khăn Kỷ Niệm, Bán Ngôi Nhà
Cổ, Những Ngôi Mả Tổ, Bám Níu, Con
Tám Cù Lần, ... viết về
những con người sống không thể rời
mảnh đất tổ tiên, quê nhà, những
"chơn trời quen thuộc"! Theo B́nh-Nguyên Lộc, con
người không thể quên cội nguồn, dù sống xa
cách nơi sinh ra, th́ vẫn gắn liền với quê
hương, như cuống rún không thể ĺa đất
mẹ - nói đúng ra là 'chưa
ĺa' v́ vẫn phải đề cao cảnh giác,
phải biết giữ cốt lơi khi tiếp xúc với
những xa lạ từ ngoài vào (từ món ăn đến
nếp sống), nếu không th́ 'chưa
ĺa', ' không ĺa' cũng
có lúc sẽ phải ... ĺa mất!
T́nh-yêu quê-hương
cụ thể bắt nguồn từ căn bản t́nh đất.
Trong truyện Thèm Mùi Đất, tác giả cho biết : "Đất có mùi thật
sự, nhứt là đất mới xới, một mùi
rất đặc biệt mà mũi họ quen ngửi cho
đến ghiền, thiếu th́ họ nghe thèm. Họ
thấy rằng họ hạnh phúc v́ họ được
thỏa măn t́nh cảm. T́nh nhớ xứ, nhớ nhà gồm
nhiều yếu tố, mà nỗi thèm mùi đất là
một yếu tố quan trọng. Nỗi thèm này có khi mănh
liệt như nỗi thèm mùi khói thuốc phiện của
những con thằn lằn, những con chuột lắt
sống trong buồng của những kẻ hút thuốc
phiện, họ thèm và nhớ mùi đất y như
đào hát thèm và nhớ sân khấu, vũ nữ thèm và
nhớ đèn màu, và y như cá thèm và nhớ
nước..." (tr. 78). Người
nông dân trông coi nghĩa trang một thành phố không c̣n ư
định bỏ về quê khi anh có đất để
để trồng rau, bông vạn thọ, t́m lại
được thú vui sống, mà nghĩa trang lại
được thơm lây quanh năm. Cùng trường
hợp với bà vợ ông giáo Quyền không thể sống
ở thành phố và cả nhà đă
phải dời ra ngoại ô để bà có đất
trồng trọt mà đỡ nhớ mùi đất quê
hương đến phải mang bệnh. Nếp
sống, mùi đất và cả người thân làm nên linh
hồn quê-hương!
Trong Chiêu Hồn Nước, người
phụ nữ theo chồng về Pháp, sống xa xứ
nhớ nhà "thèm khát quê hương ... như là thèm
một món cá nướng chấm mắm nêm, thèm
hương bưởi, thèm tiếng chuông chùa ...", nên
đă lặn lội về thăm quê trong những ngày
cận Tết, nhưng bà đă không t́m được cái
gọi là linh hồn quê hương đó v́ tại đây
bà không c̣n người thân và dây liên hệ t́nh cảm nào
cả: "Cây cỏ, núi sông vẫn có linh hồn. Nhưng
ta chỉ nắm tay được với linh hồn
cảnh vật qua trung gian của một linh hồn khác
thôi, linh hồn người..."(tr. 48, 49). Trong Phân Nửa Con Người, cha của
Sáu Nhánh muốn bỏ kiếp sống thương hồ,
trở lên đất liền sống những ngày cuối
đời. Hỏi ra mới biết là ông nhớ làng,
nhớ đất. “Tao ghiền hửi mùi đất xông
lên sau mấy trận mưa đầu mùa, (...) Tao muốn
hưởng mùi đất vài năm trước khi theo
về với ông bà (...) Rồi ngày kia mầy sẽ nghe
rằng đất có hồn và hồn mầy rất
gần gũi với hồn đất“ (tr. 96, 97).
Truyện Câu Dầm, tác giả ghi
tặng "những đứa con yêu mến của
Tân-Uyên đă xiêu bạt khắp mọi nơi sau mùa tiêu
thổ 1945“, nơi sông nước Đồng Nai, nơi
nhân vật Tôi thích câu dầm. (B́nh-Nguyên Lộc c̣n viết về Tân
Uyên quê nhà trong một số truyện ngắn và
tiểu-thuyết khác như Nhốt
Gió, Đèn Cần Giờ (chợ ḅ Tân Uyên trong
Ma Rừng), v.v.
*
Đến Những Bước Lang Thang Trên
Hè Phố Của Gă B́nh-Nguyên Lộc và Thầm Lặng là hai tập bút kư đặc
sắc về Sài-G̣n và con người sống trong cái
bưng bít của chốn thị-tứ bủa vây bởi
chiến-tranh và nhiều xáo trộn, đổi đời.
T́nh đất điển h́nh, nên B́nh-Nguyên Lộc đă
nhiều lần chỉ trích nghiêm khắc những ǵ là
ngoại lai, là xa lạ. Như trong Đ̣ Dọc, ông cho rằng thành phố Sài-G̣n không
có dân chính gốc mà toàn là thương gia và dân công chức
tạm trú làm ăn, mà ca dao, tục ngữ ở đây
cũng không có ǵ đặc sắc (ĐD, 43-44). Như các
đại-đô-thị, Sài-G̣n là nơi hội ngộ
của người Việt từ lục tỉnh lên, từ
ngoài Trung ngoài Bắc vào (đậm nét với cuộc di
cư năm 1954), nơi kiếm sống, làm lại
cuộc đời của những người này và là
nơi mà dân ngoại ô đến đó làm việc, bán hàng
hay t́m vui.
Sài-G̣n chiếm rất nhiều trang viết
của nhà văn B́nh-Nguyên Lộc. Ngoài đặc tính
đất mới, thủ phủ lớn của Đàng Trong, Sài-G̣n c̣n là băi
chiến trường của nhiều cuộc tranh hùng
Miên-Việt, Đàng Trong-Đàng Ngoài, và cuối cùng là
Pháp-Việt. Thời Minh Mạng rồi người Pháp
đến xâm lăng, Sài-G̣n mọc thêm nhiều băi tha-ma và
b́nh địa. Từ những hoang tàn đó, mọc lên
Sài-G̣n hôm nay, lớn rộng theo đà đô thị hóa,
người sống-người chết và mới-cũ
sống chung và cả tiêu diệt nhau. B́nh-Nguyên Lộc
nhắc đến nhiều tên và cảnh tượng
những con phố, con đường, những hàng cây (me,
cây vông nem hoa đỏ, ...), những con kinh, những con
hẻm đầy bất ngờ và bí hiểm và những
vết tích lịch sử:
"Ôi
những hàng me Chợ Cũ, những hàng me phố Gia Long,
những hàng me phố Tản Đà giao nhành rợp bóng,
những hàng me bầu bạn của những người
đi bộ về trưa, những hàng me ṭ ṃ ḍm vào các
cửa sổ tư gia, gởi vào đó những lá nhỏ
li ti trên tóc cô gái bé, những hàng me tàn xanh sậm quyến
luyến những tiếng dương cầm của ai
trong vài cửa sổ vọng ra. Ôi ! Những hàng me chứa
chấp cô Mùa, một cô gái quê ít dám léo hánh đến thành
phố. Chính trên mái tóc xanh biển màu theo thời tiết
của người mà những khách yêu thiên nhiên t́m dấu
chân Mùa hàng năm len lén đến vài lần nơi thành
phố. Ḷng sầu xứ quê của những kẻ lạc
loài vào đô thị Sài-G̣n được dịu đi vài
phần khi nh́n những hàng me Nguyễn Du và Hồng
Thập Tự ngă màu rồi lại thẫm mầu.
Những ngày mà toàn thân me đều khoác áo màu đọt
chuối non, là những ngày người mến thiên nhiên
nghe tiếng hát của Mùa, hồi hộp lắng nghe
bước chân Mùa trên xi măng của thành phố ..."
Những con kinh đen Tầu Hủ vùng
Chợ-Lớn tấp nập và con sông lớn của
nếp sống thương hồ:
“... Con sông con thân
mật, đứng bờ bên nây hú một tiếng là bên kia
nghe liền... Con sông gợi t́nh, thỉnh thoảng mầu
nước trong xanh biến ra vàng sậm v́ từ ḷng
cạn vẩn lên phù sa gợi nhớ Thuỷ Chân Lạp
hoang vu, nê địa, gợi nhớ cuộc đổ xô
vào Nam, gợi h́nh ảnh đẹp đẽ của
đoàn người chiến đấu với thiên nhiên
để khai thác đất mới.
Nhà Bè nước
chảy chia hai
Ai vào Bến Nghé,
Đồng Nai th́ vào
Con sông làm vận
thừa cho một giang cảng sầm uất, (cái bụng của
Sài-G̣n), tập trung tất cả ghe thương hồ
của một hậu phương trù phú. Một
người bạn ghe nào đó, không tiền để
đi hưởng các cuộc vui của thành phố tưng
bừng, ngồi trong khoang thuyền gảy nhẹ
chiếc độc huyền, và cất giọng nói thơ.
Với tiếng nhạc quê mùa, hương gió của
Đồng nai, mùi bùn của Ba Thắc, tất cả linh
hồn của đất nước như đă theo
thuyền buôn mà về đây.
Con sông đặc
biệt Á đông với những chiếc ghe dùng làm nhà, trên
mui chưng vài ba cây cảnh, trước mui một con heo
đứng ngơ ngác nh́n bờ, một con gà muốn
cất cánh bay mà ngại chết đuối.
Nên chi, đi xa
mười năm vẫn nhớ Sàig̣n. Không nhớ
những phố lớn nhà cao vô vị v́ giống phố
nhà nơi khác, mà nhớ con sông nho nhỏ, khổ đau v́
chở nặng những ghe chài khẩm lừ hàng hoá,
thủ phận người vợ hiền chăm nuôi con
dại, và bỡ ngỡ như một chị nhà quê vào thành
phố.“
Sài-G̣n đất
mới dựng xây trên tàn tích của những triều
đại thịnh suy và những sắc dân từng sinh
sống nơi đó. Nơi đây, âm dương chung
đụng, tiếp
nối, cho nên những khi
lang thang trên đường phố, B́nh-Nguyên Lộc đă phát hiện ra Sài-G̣n
được “xây dựng trên một băi tha ma minh mông”,
nơi ‘hồn ma cũ’ nhập vào đời sống
của con người hôm nay.
Ngoài Những Bước Lang Thang ..., trong một số các truyện
khác B́nh-Nguyên Lộc viết
về cơi chết và những ‘hồn
ma cũ’ một cách thiết tha. Trong Mấy Vụ Quật Mồ
Bí Mật, nhân vật
Nguyễn Văn Mun trước khi bỏ làng ra đi làm
ăn xa, đă bốc trộm hài cốt của ông bà, cha
mẹ đem theo sang xứ khác làm ăn. Trong Câu Dầm,
tác-giả xây dựng nhân vật Ba Sa thật đặc
sắc: "Ông Ba Sa là một ngựi thuộc về cơi âm.
Ban ngày không thấy ông đi đâu hết, trừ khi ông
giúp đám ma, nhà héo, đi cúng chùa, cúng đ́nh ... Như
một con cú ăn đêm, bạn bè với bóng tối, ông
Ba chỉ ra khỏi nhà lúc đỏ đèn để câu
dầm, về mùa mưa. C̣n trong những tháng nắng
ruộng khô không biết ông làm ǵ (...) Nào là chuyện
thằng cha đi câu dầm, đêm kia gặp một bà già
lạnh quíu, run rẩy bên đựng. Động ḷng
thương, anh ta cơng bà ấy về làng. Nhưng dọc
đựng nghe càng lâu, càng nặng, nặng quá, đi không
nổi. Anh ta ngó ngoái lại th́ trời ơi, đó là
một cỗ ḥm lâu đời, mục nát, hôi tanh. Lại
chuyện anh chàng đi soi ếch, nửa đường
có thằng nhỏ xin theo xách giỏ.
Tới khuya, anh ta xem
lại giỏ coi đưọc nhiều hay ít... thấy
máu chảy ṛng ṛng, ếch th́ con nào con nấy cũng
mất đầu, anh ta hỏi lẩy thằng nhỏ:
- Bộ mầy ăn ếch sao mậy?
- Ừ, tôi ăn.
- Bộ mầy là ma sao mà...
Anh chưa dứt tiếng th́ trời
bỗng chớp ḷe, thấy miệng thằng nhỏ dính
máu tèm lem, túa lụa, c̣n lưỡi nó th́ le ra dài tới
rún...“ ( CRCL tr. 84- 85).
Ma gần gũi, thân mật đến
lạ lùng!Và cũng biết nuối tiếc thời sinh
tiền!
Truyện liêu trai Cơi Âm Nơi Quán Cây Dương
căn bản là chuyện t́nh cảm giữa người
sống và người chết, liên hệ hôm nay với hôm qua, mà c̣n là lời ta thán của
những hồn oan của dân
lành thời Pháp thuộc. Quán nhậu Cây Dương ở giữa
đường Thủ-Đức-Sài-G̣n vốn là biệt
thự dùng làm đồn bót cho pḥng Hai của Pháp. Băi
đất chung quanh đă là nơi chôn cất của
những người dân sau khi bị tra tấn, đọa
đày ở trong ngôi biệt thự. Người sống
và người chết tôn trọng lănh địa của
nhau (tôn trọng hài cốt chẳng hạn), đời ai
nấy sống, th́ đă không có những chuyện quấy
phá, làm ... sợ!. Cũng như những ngộ nhận
về quyền lực của ma: "Nếu người cơi Âm mà đủ quyền
lực hại người của cơi Dương th́ bao
nhiêu kẻ sát nhơn đă bị lôi đầu xuống âm
phủ hết cả rồi chớ có đâu mà cứ phây
phây an hưởng nơi trần thế" (tr. 151). Chết
cũng không có nghĩa là đă hết chuyện!
*
Toàn bộ tác phẩm của ông gồm
trên 1000 truyện ngắn và gần 50 truyện dài nhưng
xuất bản chỉ được một phần
nhỏ. Các nhà nghiên cứu phê b́nh về B́nh-Nguyên Lộc
thường dừng lại ở truyện ngắn và bút
kư của ông mà không nh́n toàn bộ tác phẩm đă xuất
bản cũng như đă đăng báo. Theo B́nh-Nguyên
Lộc, một tác phẩm lớn, "không bắt buộc
phải đề cập tới một vấn đề
lớn, mà là một tác phẩm nói được nhiều
về một chuyện nhỏ" (5). Cũng theo ông,
"văn chương có giúp cho đời sống, đó
chỉ là những tiếng th́ thầm của một
người nói với chính ḿnh" (6). B́nh-Nguyên Lộc
từng cho nhà thơ Bàng Bá Lân biết ông thích
tiểu-thuyết Xô Ngă Bức
Tường Rêu (1963) hơn là Đ̣
Dọc v́ "Đ̣ Dọc
chỉ có giá trị nghệ-thuật, c̣n Xô Ngă Bức Tường Rêu ngoài nghệ thuật
c̣n có tính cách xây dựng nữa". Trong phần phỏng
vấn của Bàng Bá Lân, B́nh-Nguyên Lộc c̣n cho biết ông
thích tất cả các đứa con tinh thần của ḿnh,
nhưng tác-phẩm mà ông thích nhất là tiểu-thuyết So
Le từng đăng báo khoảng năm 1953-54 nhưng ông
không muốn xuất bản khi c̣n sinh-tiền; và
đoạn văn mà ông thích nhất là đoạn cuối
trong Nhện Chờ Mối Ai?
(1962) (7).
Văn chương ông do đó giản
dị như cuộc đời, không cầu kỳ, trau
chuốt gọt đẽo. Có những câu cụt ngủn,
lừng khừng. Ông hay dùng những chữ như "hay
không" ("... kể may mắn hơn liệu có
lương thiện được hay không nếu ..."
(Đ.D. tr 233). "Có
muốn tiền hay không", "hay có chuyện ǵ lạ
hay không"), hoặc chữ "nầy" ("cảnh
khổ nạn ở xóm thuốc nầy", "ai cũng
buồn cười cho hoàn cảnh rể ngược
đời nầy"). B́nh-Nguyên Lộc dùng nhiều
tiếng thông dụng hàng ngày như "cái mới khó
hiểu / có cái ǵ lạ nè /
thiệt là hết hy vọng / có hay th́ thôi,...".
Đất Nam-kỳ lục tỉnh là nơi
gặp gỡ và sống chung của nhiều dân-tộc
như Khmer, Hoa, Chăm, ..., trong đó người Việt
đóng vai tṛ chính. Những người Việt từ phía
Bắc đến định cư ở vùng đất
mới mang theo vốn văn hoá gốc rễ của ḿnh,
trong đó có tiếng nói. Từ sự hợp cư đó,
tiếng nói và ngôn ngữ trở nên pha trộn, nhận
chịu ảnh hưởng với đủ giọng
Bắc, Thanh Nghệ, giọng Nam-Ngăi, bên cạnh tiếng
Chăm, tiếng Cam-Bốt, tiếng Hoa giọng Phúc
Kiến, Triều Châu. Tác-phẩm của B́nh-Nguyên Lộc là
cả một kho tàng ngôn ngữ địa phương
thời xưa, thời thập niên 1940, 1950, 1960 và tiếng
Hoa, tiếng Tiều (Triều Châu): xính xáng, tài pán, tào cáo (’con
chó lớn’, để ám chỉ quan lớn Tây), v.v.
Từ láy và phương
ngữ Nam-kỳ của B́nh-Nguyên
Lộc giàu âm thanh và tượng h́nh : mỏng lét, lúp-xúp, lụp-xụp, xèm-xẹp,
lùn xủn, rụp rụp,
xúm xít, rôm rả, rôm rốp, ong-óng, rung len-ken, cười khan, già háp,
tươi rói, la bài-hăi, (lên giây thiều) rồn-rột, v.v. Những so sánh đặc
biệt, như đất trồng trọt thiếu
nước: "đám
đất ông nó khát hả họng" (Đất Không
Chết), hay "không có ǵ
ăn tui cũng nghe no tới cổ v́ sung sướng"(Bám
Níu), ... Và dĩ nhiên tiếng Pháp và biến-thể của
chúng cũng được B́nh-Nguyên Lộc tận dụng
cho tác-phẩm của ḿnh, cho hợp mạch-văn và
khung-cảnh với thời buổi bấy giờ: cái
bách-xê (laisser-passer, giấy thông-hành), cúp cua, sô-cô-la, cam-nhông,
ô-tô-buưt, ...
*
Nh́n chung, B́nh-Nguyên Lộc
thiên về phân tích tâm lư, về mô-tả đời sống
con người ở miền Đông cũng như ở
thị thành. Hoặc cả hai với những nhân vật
từ thôn quê lên tỉnh thành. Ông vẫn thiên vị cho
rằng con người miền Đông "văn minh"
hơn con người ở miền dưới, miền
Tây - nơi ḷng người chưa thuần và chưa có
truyền thống (X. Đ̣ Dọc, tr. 67).
Người thành thị phải thích ứng đời
sống mới ở thôn quê như trong Đ̣ Dọc, nhà quê
lên tỉnh khó thích ứng với đời sống
mới như trong Hoa Hậu
Bồ Đào, Ái Ân Thâu Ngắn Cho Dài Tiếc Thương,
v.v. Nửa quê nửa tỉnh! Nhất là buổi
đầu! Cô
Hiếu (trong Hoa Hậu Bồ Đào), một
người con gái quê có nhan sắc lên thành phố, phải
chống chọi với bao nhiêu cạm bẫy, cám dỗ
của lối sống thị thành.
B́nh-Nguyên Lộc cũng
chú tâm đến cho con người ở chốn thị
thành, vào thời mà văn minh vật chất tràn ngập sau
thế chiến thứ hai. Con người biến tính,
mất căn bản, bê trễ chuyện gia đ́nh (Gieo Gió Gặt Băo) thành ra hư
hỏng, vô trách nhiệm với xă hội (Nhện Chờ Mối Ai, Nửa Đêm Trảng
Sụp). Nhưng như đă tŕnh bày ở trên, đặc điểm nổi bật của
các tác phẩm của B́nh-Nguyên Lộc là t́nh đất, t́nh
quê-hương. Nhiều
truyện của ông thực ra là những tùy bút như các
truyện trong Mưa Thu Nhớ
Tằm và Cuống Rún Chưa
Ĺa. Trong các tùy bút này, B́nh-Nguyên Lộc tỏ ra là một
người yêu quê hương xứ sở. T́nh yêu
đất nước là một đề tài hay
được B́nh-Nguyên Lộc khai thác qua góc nh́n
văn hoá, lịch sử và sau cùng là nhân chủng, các chi
tiết, địa danh đều ẩn chứa
dấu-tích thời gian, lịch sử và nếp sống
của con người qua nhiều thời đại,
thế hệ.
*
Các nhân vật của
B́nh-Nguyên Lộc gồm đủ loại, từ những
con người b́nh thường, các nữ sinh, sinh viên trường
thuốc, kiến trúc sư, cô thầy giáo, công tư
chức, nhà báo, đến văn
nghệ sĩ, kinh doanh lớn; cả gái buôn
hương, trộm cắp, dân anh chị, me Tây, me
Mỹ, hay ... ma Hời, ma
Việt, v.v. Các nhân vật nam
của ông hơi dễ dăi, không rơ nét "nam" như các
người nam trong tiểu thuyết của Sơn Nam.
Thường tâm lư các nhân vật của B́nh-Nguyên Lộc
đều tốt đẹp rơ nét : trong Đ̣ Dọc có ông bà Nam Thành, bà phủ mẹ
của Long, Long nghệ sĩ nhưng khi cần cũng
biết bổn phận, hay cô Hương lớn nhất
nhà nhưng yên lặng đến dửng dưng, chấp
nhận hoàn cảnh, không hề đau khổ. Cô Hoa có
hơi lắm lời theo lẻo, đánh chị sứt
mặt, nhưng lại có ḷng : "... điều đó tuy
bậy, nhưng những kẻ may mắn hơn liệu có
lương thiện được hay không nếu đứng
vào địa vị họ?" (ĐD, tr. 233)!
Chuyện t́nh ở
B́nh-Nguyên Lộc ít éo le, thường là đôn hậu,
nhẹ nhàng, nhưng cũng có những bất ngờ! Không
khí tiểu thuyết của ông vui, lạc quan. Trong Trâm Nhớ Ngàn Thương nhân vật Ngàn từ
yêu đi đến thương, lo lắng cho người con gái mà gia đ́nh rơi vào hoàn
cảnh éo le. Phông là chuyện t́nh nhưng có nhiều tṛ
chơi, đuổi bắt và bi kịch.
Cốt chuyện nếu có rối
rắm th́ cũng có giải pháp, lối thoát. Hoà hoăn, như
đoạn cuối Đ̣
Dọc, đám trẻ trở về Sài-G̣n, c̣n hai ông bà
Nam Thành ở lại Thái Huyên Trang bên suối Lồ-Ồ
hợp với tuổi già. Lại nhiều khi bất
ngờ và thích thú chứ không bi đát. Tâm lư nhân vật ít
được đào sâu. Trong suốt cuốn truyện dài
Đ̣ Dọc chỉ có nhân vật ông Nam Thành là có một tâm
lư linh hoạt, v́ có thể cũng là tâm sự và dáng dấp
của ông. B́nh-Nguyên Lộc ở nhiều tác phẩm
lạm dụng nhiều đối thoại, t́nh tiết
kéo dài không cần thiết hoặc nơi khác, lại sa
đà đi vào lănh vực nghiên cứu, lư luận.
Ông có tài quan sát, nhất
là về thảo mộc. Rừng cây dầu lông vùng Tân Uyên
trong Nhốt Gió (1950) :
"Nếu cây trắc giống như người già háp,
lâu lớn, cằn cỗi, cây sao giống một
người mạnh mẽ vừa tầm th́ cây dầu
giống một anh cao lỏng khỏng, y phục lại
đơn sơ. (...) Rừng dầu thưa, thân dầu
suôn đuồn đuột vươn ḿnh lên cao măi tận
đâu. (...) Trên lớp lá dầu tṛn, x̣e ra như cánh
quạt bông dầu nhuộm hồng cả khu rừng. Bông
dầu lông đỏ lợt, lấm tấm những
điểm trắng rất đẹp. Họ đạp
lên những lá dầu kêu rôm rốp. Trên đầu họ
ong kêu vù vù là muôn ngàn người đương tṛ
chuyện trên ngọn cây. Những miệng dầu bị
đốt, hả miệng đen ng̣m dưới ngọn
cây"(8).
Trong Đ̣ Dọc: "Trái sao, trái dầu bay
đẹp mà rơi cũng đẹp. Nhưng trái trắc
bay trông lại buồn cười. Cánh của trái ấy
không chia ra hai nhánh, hoặc bốn nhánh mà lại bao quanh tṛn
cả trái. Trái trắc, nếu gió to th́ bay cuồng loạn
lộn nhào, c̣n nếu gió nhẹ th́ bay như dĩa bay mà
các cô thấy trong chiếu bóng...".
Đoạn mở
đầu truyện ngắn Rừng Mắm, ông tả tâm
trạng thằng Cộc dơi theo con chim bói cá: "Chim đang bay lượn bỗng
đứng khựng lại, khiến thằng Cộc thích
chí hết sức. Nó theo dơi con chim thầy bói ấy từ
năy đến giờ, chờ đợi cái phút này đây.
Thật là huyền diệu, sự đứng yên
được một chỗ trên không trung, trông như là
chim ai treo phơi khô ngoài sân nhà. Chim thầy bói nghiên
đầu ḍm xuống mặt rạch giây lát rồi như
bị đứt dây treo, nó rơi xuống nước mau
lẹ như một ḥn đá nặng. Vừa đụng
nước nó lại bị bắn tung trở lên như
một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một
con cá nhỏ" (KT tr. 11).
Dù không đưa ra tư
tưởng lớn nhưng B́nh-Nguyên Lộc có những
triết lư thực tế về cuộc đời. Hùng,
một anh sinh viên "trường thuốc" vốn
sợ xác người chết, nhưng ngày kia gặp xác
một người phụ nữ có thể từng là
người anh yêu, đă thay đổi thái độ,
"tôi không c̣n đau khổ v́ cái chết vất vả
của người tôi yêu nữa mà đau một niềm
khác anh à. Tôi đau cho cái nghĩa của đời con
người liền sau khi chết. (...) Tôi sẽ làm cho
sự sống c̣n hoài, không những đánh bại bịnh
tật, mà cả sự già ṃn nữa" (Ba Sao Giữa
Giời, KT tr. 55). Tỳ
Vết Tâm Linh nói đến khía cạnh tâm thần
với những ám ảnh và động lực sống
của các nhân vật, một đề tài quan-thiết
đối với nhà văn B́nh-Nguyên Lộc.
Xin mở dấu
ngoặc nói đến một chi tiết trong truyện
ngắn Rừng Mắm nổi tiếng là hay nhất
của ông và đă được dịch ra Anh Pháp ngữ. Theo B́nh-Nguyên Lộc tả trong truyện, cây mắm
là những "cây không dùng được để làm ǵ
cả, cho đến làm củi chụm cũng không
được", mọc nhiều thành "rừng".
Theo Lương Thư Trung, một cây viết tùy bút ở
vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, th́ cây mắm "là một
loại cây tạp, có thịt cứng, và mọc thành
rừng tại những nơi gần bờ biển. (...)
Lúc c̣n nhỏ, cây mắm có nhánh um tùm. Về sau cây mắm
lớn thêm, những cành nhánh nhỏ này tự động
rụng hết, để bắt đầu đâm
chồi mới cho tới lớn làm củi
được". Ông Trung đă dọ hỏi nhiều
người quen từng biết cây mắm và ngay chính
bản thân ông sau 1980, khi "học tập cải
tạo" về, từng phải vác củi cho ḷ
gạch, đă từng vác những thân cây mắm "dài
cở một thước" (9). Với tất cả quí
mến văn tài B́nh-Nguyên Lộc. thiết nghĩ chi
tiết này cũng nên được ghi nhận. Chính
B́nh-Nguyên Lộc đă gián tiếp cho biết đă viết
truyện này gợi hứng từ một bức tranh
vẽ (10). Quan trọng là tác-giả đă thành công về
kỹ thuật viết truyện gây thú vị nơi
người đọc!
*
Là người chủ
trương tờ Vui Sống
(ra được 10 số), B́nh-Nguyên Lộc viết
nhiều truyện vui và đă xuất bản tập
truyện Tâm Trạng Hồng
(1963). 25 truyện trong tập này kết thúc bất ngờ
gây thích thú ngạc nhiên nơi người đọc
cũng như cho thấy tài hóm hỉnh và quan sát bén nhậy của tác-giả. Tập Tân
Liêu Trai (1959) cũng như tập truyện dài Cơi Âm Nơi Quán Cây Dương
(1972) c̣n chứng tỏ ông là người thực tế.
Truyện trong hai tập này có vẻ quái đản nhưng
kết cục khoa học thuần lư thay v́ phải là hoang
đường như các truyện thuộc cùng loại.
Với B́nh-Nguyên Lộc, người đọc biết
không có ... ma, và ma nếu … có th́ cũng là thân thiết,
có duyên nợ (hoặc có lư do hoặc ma là ruột thịt
trong truyện Câu Dầm)
mới được gặp nhất là gặp
thường xuyên như nhân vật xưng Tôi với
ma-nữ Trường-Lệ trong tiểu-thuyết Cơi Âm
Nơi Quán Cây Dương!
B́nh-Nguyên Lộc có lối khôi hài duyên dáng và nhân vật
buồn của ông cũng ít quan trọng. Sự việc
nếu có ‘bi’ th́ ông nói qua loa, c̣n để nói chuyện
đùa vui. Có thể nói Đ̣ Dọc là sân khấu hài
của nhà văn B́nh-Nguyên Lộc, từ ông Nam Thành,
đến các cô con gái, cậu "công tử"
Quờn,.. Trong lời nói cũng như cảnh
được tả. Nhưng cũng trong Đ̣ Dọc,
cái vui nhộn có hơi nhiều, mất cả tự nhiên,
như khi các cô đang mong Bằng lâu không đến th́
một cô "kêu rú lên" và Bằng xuất hiện! Hay
cần phải bất ngờ đến thế?
B́nh-Nguyên Lộc hóm
hỉnh trong cách tả cảnh lạ lẫm: "Đèn
pha trên xa lộ bắt tréo nhau như những lưỡi
gươm dài mà mấy tay hiệp sĩ dạ khách khổng
lồ nào đang so kiếm giữa đêm
trường" (Đ.D., tr. 44). Hay: "Kên kên bị
đốt lửa mang theo mỗi chú một cục lửa
đỏ ḷm trong bầu trời đen của đêm
vừa xuống" (Đ.D., tr. 78).
Phong cách kể chuyện
vui sống, hài hước dễ dăi trở thành đặc
điểm quyến rủ. "Tác giả thiên truyện vơ
hiệp ‘Sơn đông kiếm hận’ lục lạo
khắp cả các ngăn của chiếc bóp phơi của
chàng mà chỉ t́m được có mười bốn
đồng, nằm ở ba nơi khác nhau. Chàng mừng rỡ
biết bao mà chợt nhận ra rằng c̣n một ngăn
nữa, ngăn bí mật rất khó thấy v́ nó lẫn
với bao ngoài của cái bóp. Chàng thọc tay vào đó và tim
chàng bỗng đập th́nh th́nh v́ đầu ngón tay chàng
đụng phải thứ giấy mềm quen thuộc.
Dương Châu kẹp tờ giấy ấy bằng hai
đầu ngón tay rút ra th́ ô hô, đó là tờ giấy hai
đồng" (Quán Tai Heo) (11). Tác-giả dùng nhiều ví
von, như trong Ba Con Cáo khi túng tiền : "Đất Sài-G̣n,
những ngày cuối tháng mà mưa dầm, th́ tiền
bạc nó cũng sợ lạnh, không hề dám ló ra
ngoài". Hay khi dùng t́nh nghĩa vợ chồng đem so
với đất: "... vợ chồng không thân thiết
với nhau hơn là ḿnh với đất. Vợ chồng
chỉ ăn ở với nhau ba bốn mươi năm
là cùng, đất th́ nó thấy ḿnh sanh ra, lớn lên, già
yếu, rồi nó lại ôm ḿnh khi ḿnh chết. Ḿnh cũng
thấy nó từ lúc lững chững bước đi cho
tới lúc chống gậy mà lê bước..." (Phân
Nửa Con Người, CRCL tr. 97).
Cuộc đời làm báo
đă hại giá trị văn chương các tác phẩm
của B́nh-Nguyên Lộc. Như ông đă kể trong bài
"Vài kỷ niệm viết lách với Thanh Nam" (12),
nhà văn viết tiểu thuyết trên các nhật báo ở
miền Nam thời bấy giờ (1954-1970) thường
viết vội vàng, ngay cạnh máy in, được câu nào
đưa thợ xếp chữ câu đó, hay kéo dài và
xuống hàng. Tiểu thuyết Đ̣
Dọc là dấu vết, hễ chấm câu là xuống
hàng, khi in đă không sửa lại. Cao điểm là năm
1957, ông viết mỗi ngày 11 tiểu thuyết cho 11
nhật báo (13). Do đó không viết một hơi, viết
trước, các tiểu thuyết của ông cũng như
nhiều nhà văn khác trong cùng hoàn cảnh đă không
được sáng tác theo kiểu chăm sóc nghệ-thuật.
Và t́nh tiết kết cấu có khi bừa băi, dài ḍng khi không
cần thiết. Có thể nói ông kể chuyện hơn là
viết tiểu thuyết. B́nh-Nguyên Lộc đành thúc
thủ theo cuộc sống thời đại máy móc
vậy, nhưng ông nghĩ: "Khi mà ai cũng vội vàng
cả th́ người ta sẽ đánh giá trên cái ǵ c̣n
lại của mỗi nhà văn trong không khí hấp tấp
chung đó" (14). Chính B́nh-Nguyên Lộc đă tiết
lộ ông viết nhiều như vậy bắt nguồn
từ lời khuyên của nhà văn Nhất Linh viết
đều và hứng sẽ đến như Thạch Lam
từng áp dụng (15).
B́nh-Nguyên Lộc mặt
khác dễ dăi về h́nh thức. Trước hết
với ông, h́nh như kỹ thuật viết truyện hay
tiểu thuyết gần như nhau, dài ngắn chỉ
ở t́nh tiết và thời gian diễn biến. Thứ
nữa, tác giả hay pha lẫn thể loại hoặc
đang kể ngôi thứ ba th́ cho cái "tôi" nhảy vô
lư luận thay cho nhân vật: "Ở thôn quê miền
Đông, nhứt là ven các con lộ, không hiểu tại sao
trong ṿng mười lăm năm nay cỏ bù xít mọc
nhiều quá. Các bạn biết thứ cỏ ấy
chăng? Đó là thứ cỏ..." (Đ.D. tr. 214).
B́nh-Nguyên Lộc tinh quái
nhưng đôn hậu khi tả một anh chồng ao
ước có cô vợ bé khi thấy nhà giàu lắm vợ:
"Chưa có vợ mà Khánh đă gầy sút đi v́ mất
ngủ. Mất ngủ v́ lo toan phương tiện tài chánh
mà cũng v́ bận tính mọi việc xẩy ra ở các
nhà vợ bé.
Chín giờ chàng lắng
đợi chiếc x́-po hai chỗ ngồi của cái ông
mặc áo con chim con c̣. Chàng tưởng tượng cô Mari
đang uyển chuyển bước ra mở cửa
rồi nhảy ra bá lấy cổ lăo cao bồi già. (...)
Mỗi ngày đi làm bốn buổi Khánh đều ghé qua cô
hàng thuốc lẻ ở đầu đường V. V́
ở đó có đèn đỏ, không ngừng cũng không
được. Mà ngừng một lần th́ nó bắt
phải ngừng hoài v́ cô bán thuốc mặt rỗ hoa mè
trông có duyên ớn" (Ngơ Hẻm Vợ Bé).
Luân lư lành mạnh,
lạc quan, hồn nhiên, vui tươi theo truyền
thống "lục-tỉnh". Để cấu-trúc
một câu chuyện, thường B́nh-Nguyên Lộc chú
trọng đến chi tiết, thật nhiều chi
tiết và chính những chi tiết này đă đưa
đến cho người đọc sự thích thú, đă
đọc là phải đọc đến đoạn
cuối. Trong truyện Thí Một Con Chốt, người
hào hiệp như Tư Khâm về sau hóa ra là một tên phản loạn và cô gái gọi ông
là ba đó cũng chỉ là phường bịp bợm, toa
rập với Tư Khâm để cướp ăn
của người khác!
Không văn chương
với lư thuyết lớn lao, không phân tích tâm lư theo học
thuyết này nọ, không nhắm chiếu trên chiếu
dưới, ông viết như sống, b́nh dị, ...
Một mỹ học giản dị, dễ dăi. Ông không diễn
tả tâm lư nhưng hay phân tích tâm lư như một
người sành sơi, nh́n khắp, tinh quái có, dai dẳng có, mà
thường là đôn hậu! Một tâm lư b́nh dị
của con người trong cuộc sống thường
nhật, những cảm nghĩ như mọi
người. "Liên nghe qua th́ biết Sang giờ này
vẫn c̣n ngồi đó đợi Ngọc về mới
cởi giầy, Ngọc tưởng hắn cũng chỉ
mới về trước đây một phút thôi. Không lư ǵ
mà Ngọc nói đến giày vớ khi Sang đang làm công
việc khác..." (16). Làm như giữa tác giả và
độc giả như không có biên giới, có thể
hiểu nhau, tâm sự hay đối thoại không mặc
cảm!
Nhà thơ
B́nh-Nguyên Lộc c̣n là
một nhà thơ; ông có tập Thơ Tay Trái, một
tiểu thuyết bằng thơ với tựa Thơ Ba
Mén và một truyện thơ
Vịệt Sử Trường Ca. Truyện thơ Thơ Ba Mén "dài chừng 2000
câu, đă đăng báo Duy Tân
năm 1954" và theo Lời chú của B́nh-Nguyên Lộc ở đầu tập Thơ Ba Mén, ông cho biết, ông
đă hứng cảm từ "một buổi mắc
mưa tại chợ Ông Lănh nghe một người mù
đờn độc-huyền đưa hơi theo lời
'nói' thơ của anh, cảm thấy rơ rệt sức
quyến rũ của thơ b́nh dân, tôi mới nảy ra ư
viết tập truyện dài này. (...) Tôi không có tham vọng
viết một áng thơ tuyệt tác về h́nh thức
như Kiều. Tránh cho thơ b́nh dân khỏi bị hạ
thấp xuống bực vè, tránh những hoang
đường cũ, thay vào đó những ư tưởng
mới của thời đại, đó là tất cả
mong mỏi của tôi" (17). Theo Hoàng Vyễn Ngư
tiết lộ trên tạp chí Nghệ
Thuật (18), Thơ Tay Trái gồm những bài thơ làm
vào thời 1940, từng đăng trên hai tạp chí Thanh Niên, Bách Khoa, đă
được một người bạn xuất bản
trong thập niên 1960 (!) với 2222 bản. Họ Hoàng trích
đăng lại Có Những Ngày..., một bài thơ mà
B́nh-Nguyên Lộc cho là dở nhất của ông :
"Có những ngày ḷng
thấy trống không,
Lâng lâng không bợn như chén nước
trong.
Như không khí đồng quê buổi sáng,
Như tiếng chuông chùa rơi trong mênh
mông ...
Tôi rất sợ những ngày ngao ngán
ấy,
Thà buồn hẳn đi để
được trốn trong đau thương.
Không cảm thấy ǵ, lơ lửng
giữa chừng đường.
Hồn chới với, bông lông, ôi ngao ngán
bấy !"
Đoạn khai-từ
tiểu thuyết Thơ Ba Mén như sau :
"Lạnh thấm ḷng,
mưa mai lác đác,
Quán bên hè, uống tách cà phê.
Nh́n ghe bồng chạnh t́nh quê,
Rưng rưng nước mắt: tư
bề người dưng.
Bến Ông-Lănh màn mưa bao phủ,
Ghe thương hồ ủ rũ
dưới kia.
Ghe ơi, vài bữa ghe về,
Nhắn người dưới ruộng,
cô Qú c̣n không?
Mùi đất nước ruộng bùn
phảng phất
Nhớ cố hương ngây ngất ḷng
sầu
Năm năm, bao cuộc bể dâu?
Phút giây ôn lại như hầu hôm qua.
Bàn bên cạnh, một ông bới tóc
Liếc sang ḿnh đang khóc trộm
thầm.
Đoán ḿnh là kẻ đồng tâm,
Lân-la nói chuyện. Mưa dầm cứ
rơi!
Cà-phê nóng lên hơi nghi ngút,
Ḷ than hồng lách-tách nổ tan.
Nghe ngườI kể chuyện xóm làng,
Cơi ḷng ấm dịu, bang-hoàng, bang-khuâng.
Viết lại đây mẩu đời
loạn lạc,
Thương những người ch́m
nổi, đầy vơi.
Thơ quê khôn tả hết lời,
Để ghi dấu vết một
thời chiến tranh" (Trên Bến Ông Lănh)(17)
Không khí đời
sống trên kinh rạch chằng chịt ở miền
lục-tỉnh, nhịp sống trầm lặng, nhẹ
trôi, như lục b́nh trong những con nước phù sa,
như những con thuyền thương hồ trên sông
rạch. Trong cái êm đềm đó nổi lên mối t́nh
với một cô Quỳ dưới ruộng mà ngày trở
về đă mất dấu, bóng chim tăm cá !
Truyền thống thơ
này sẽ biến mất với sự sống chung văn
học Nam-Bắc sau 1954 và phần khác thi-ca theo đà
hiện-đại hóa với thế-giới. Những bài
thơ gần với ca dao, câu ḥ. Ở đây chỉ có
bức tranh nhân chủng học, folklore, do đó
người đọc không nên t́m kiếm cách-tân ngôn-từ, kỹ
thuật, v.v. Như t́nh mẹ, được diễn
tả bằng những lời lẽ đơn sơ, trong
sáng:
"Bánh có hiệu L.U. con thích
Viết có viết Parker con ưa,
Ra dô Nhựt bổn nhỏ vừa,
Xe Honda nổ xin thưa : "tuyệt
vời!"
Má ơi, con thưa nhỏ đôi lời :
Trong các hiệu Má, con thời mê hiệu
"Má của con".
Má của con không son, không phấn,
Má của con không áo đẹp, nước
hoa,
Không lên xe xuống ngựa như các má
gần nhà,
Mà sao con thấy g̣ má của má nỏn nà,
Con hít mùi má lại nghe ngà ngà say!
Má của con ơi, má lúc thúc nhà bếp hoài
Để kho cá, để làm bánh cho ai
vậy má ?
Có phải chăng để ba con quên
một ngày mệt quá,
Để cho con và lủ em con
Mà hai hàm răng và bao tử xay bon bon
(...) Hiệu
má của con, với cái nhản áo the lụng thụng
Không téc ni cô lô như má của con Nhàn
Bày tủ kiếng, không rực rở huy
hoàng,
Không được khách trầm trồ
đứng ngắm.
Nhưng con tín nhiệm hiệu "Má
của con" lắm lắm". (Hiệu "Má của
con") (19).
Tập truyện ngắn
T́nh Đất mở ra với bài thơ "Dâng Má
Thương" - cũng là bài mở đầu cho
loạt bài "Thổ ngơi Đồng Nai" của
B́nh-Nguyên Lộc đăng báo Bách Khoa năm 1959 (20):
"Từ đáy
thời gian, dậy tiếng ru
Ù ơ lời má, giọng trầm phù,
Má ơi, hồn đất bao năm
thiếp,
Bỗng chốc trưa nay vắng, tít mù
...
Kẽo kẹc xà nhà tiếng vơng
đưa,
Đâu đây đồng vọng cơi xa
xưa;
Thổ ngơi thơm phức; hồn ma
cũ.
Ḷng rộn vui mà mắt lệ mờ
(...)"
T́nh yêu th́ nhẹ nhàng, dù
đam mê có khi đưa đến ư quẩn. Trong tuyển
tập Thơ do nhà Đông-phương của nhà
văn Nguyễn Thị Vinh xuất bản, một
tuyển tập thơ của một số nhà văn
như Nhật Tiến, Vơ Phiến,… B́nh-Nguyên Lộc có hai
bài thơ nói chuyện thắt gút, một để đánh
dấu t́nh yêu và một đánh dấu thời gian :
"Gút đầu
đánh dấu niềm đau,
Nh́n bao mộng thuở ban đầu êm ru.
Mộng tàn như bọt phù du,
Ước xưa, mộng cũ
được ngôi mộ đầu.
Vở ḷng yêu là cái gút sau,
Gút ba là phút tôi trao thư t́nh.
Gút tư người đẽp làm thinh,
Gút năm chết hụt lúc ŕnh xe hoa (...
)" (Tôi Thắt Gút Đời Thành Khúc, Sđd, tr. 3)
Bài Gút kia th́ kể chuyện đường
rừng:
"Đồng bào có người /
Sống trong sơn cước
Văn minh chậm bước / Không
biết tính ngày
Mỗi
độ tṛn trăng / Họ thắt một gút
Vào sợi dây găn / Đời dài hun hút
(...)" (Người Thắt Gút, Sđd, tr. 6).
Nhà báo
Ngoài mười hai
năm làm công chức Sở trước khi theo kháng
chiến chống Pháp, ông sống về nghề viết báo
rồi làm báo chuyên nghiệp từ năm 1952 xen lẫn với
những thời kỳ sống hẳn với nghề
viết văn. Ông từng viết cho tờ Thanh Niên (1942-43) sau đó là các
tạp chí Nhân Loại, Đời
Mới, Văn Hóa Ngày Nay, Bách
Khoa, Văn, Nghệ Thuật, v.v. cùng nhiều nhật báo. B́nh-Nguyên Lộc chủ trương tuần báo Vui Sống (1959), làm tổng
thư kư nhật báo Tin Sớm
(1964-65) cũng như chủ biên các báo Tin Mới (1952),
Hy Vọng (1966) và phụ trách trang văn nghệ
của báo Tiếng Chuông
(1960-1963).
Tác-phẩm của ông mặt khác chứng
minh thêm tính lạc quan, cũng là đặc tính làm nền
cho tuần báo Vui Sống do ông chủ trương năm 1959.
Báo Vui Sống (số 1 ra ngày 9-9-1959) là nơi quần
hội những cây viết thường xuyên là: B́nh-Nguyên
Lộc, Sơn Nam, Diên Quỳnh, Nguyễn Ang Ca, Tô Kiều
Ngân, Trang Thế Hy, Thiên Giang, Ngọc Linh, Kiên Giang Hà Huy Hà,
Nguyễn Đạt Thịnh, Hà Liên Tử, Minh Phẩm
(TTH), Minh Đức, Trần Lê Nguyễn, Từ Trẩm
Lệ, Tường Linh, Khổng Nghi, Thanh Nghị, Lê
Thương, Viễn Châu, ... Trong số có người
từng đi kháng-chiến hoặc ‘nằm vùng’ sau đ́nh
chiến 1954. Đặt biệt báo nhấn mạnh có
sự cộng tác của 20 cây viết nữ: 'Cô Thu Trang, cô
Linh Bảo, cô Minh Đức, cô Hương Trang. cô Linh Hà,
cô Vinh Lan, cô Trúc Liên, cô Kiều Mỹ Thôn, cô Thạch Hà, cô
Hợp Phố, bà Mộng Liên,.... '. Hợp Phố, Linh
Bảo lúc đó đă nổi tiếng. Minh Đức
văn trên báo hiền lành, trái hẳn với Minh Đức
Hoài Trinh của Sám Hối,
... hoặc của Chiếm
Lại Quê Hương, Bài Thơ Cho Quê Hương, Bên Ni Bên
Tê sau này. Nhà văn Vinh Lan của Vui Sống măi gần
đây mới xuất-bản tập truyện và kư Nỗi Sợ Và Niềm Hy
Vọng (2006) và Hương
Quỳnh (2007).
Lư tưởng của Vui Sống được in chữ đậm
trong một cột nhỏ: "Tôi được
Thượng đế mời dự đại hội
liên hoan nơi thế gian nầy" Tagore Thi hào Ấn
Độ (trích tập thơ Offrandes lyriques). Nhưng, xin
chớ hiểu lầm! Vui Sống không có nghĩa là
cười đùa hay buông trôi để tận
hưởng cuộc đời. Và hội liên hoan không
phải là những cuộc truy hoan. Vui Sống (la joie de
vivre) là ḥa ḿnh với cuộc sống, để lấy
thăng bằng hầu đủ can đảm mà làm
việc. Trác táng không phải là Vui Sống, và kề gái
đẹp, nếm rượu ngon, chỉ là nước bí
của những kẻ mất thăng bằng. Vui Sống
bắt nguồn nơi thanh thản của tâm hồn,
mặc dầu ta bận rộn trí óc và nhọc nhằn xác
thịt". Người đọc biết chủ
trương, đường lối, quan điểm
của Vui Sống qua các bài
mở đầu mỗi số, như trong Vui Sống số 1 với tựa đề
"Ngả ba số mạng : Cộp... Cộp...
Cộp...- Lư tưởng đi vắng!":
"Trên đường lịch-sử,
cứ vài mươi năm một, th́ một dân-tộc
tiến đến một ngả ba của số mạng
của họ.
Đó là một khúc quanh lịch sử vô
cùng nguy hiểm mà họ bắt buộc phải chọn
nẻo, không thể trốn tránh được. Chọn
đúng đường, họ sẽ đến nơi xán
lạn, chọn lầm, họ sẽ rơi vào vực
thẩm.
Mà một thế hệ hoang mang, không
thế nào chọn đúng con đường
được. Họ Phải Biết Cái Ǵ Họ
Muốn, tức là họ phải có lư tưởng.
Năm 1945, ta đă đứng
trước một ngả ba như thế. Ta đă
chọn đúng con đường, là đem xương máu
giành độc-lập, v́ trong thời
tiền-chiến, ta có lư tưởng rơ rệt, đó là
ư-chí tự quyết-định số phận của ḿnh.
Từ khi độc-lập
được thu hồi, kẻ già an-phận v́
kiệt lực, hoặc v́ thích ngủ trên ṿng hoa tráng
lệ của thành công, c̣n thế-hệ mới th́
ngơ-ngác không biết ḿnh phải làm ǵ, trong khi c̣n không
biết bao nhiêu công việc phải làm.
Cuộc phỏng vấn của Vui
Sống, mà kết quả đăng bên trang 5, là bằng
chứng hùng-biện của sự bỡ ngỡ của
thanh niên hậu chiến.
Không lư-tưởng là nguồn gốc
của bao nhiêu là cuộc đời thừa, có cũng
như không, là nguồn gốc của bao nhiêu cuộc
đời hư-hỏng, mà người ta không xét
kỹ, cứ đổ lỗi cho nhiều nguyên nhơn
khác.
Hồi tiền chiến, không nước
nào có nhiều trà thất bằng nước Nhựt.
Thế mà không thanh niên nước nào hăng hái với
nhiệm vụ cho bắng thanh niên Nhựt của thời
đó.
Hồi tiền chiến, số vũ
trường ở V. N. không kém số vũ trường
bây giờ. Thế mà lúc khởi nghĩa, thanh niên ta đă
đứng lên đáp lời sông núi, trong sô chiến-sĩ
ấy, có rất nhiều thanh niên đă đi nhảy.
Hồi tiền chiến, phim cao bồi
vẫn chiếu ở đây. Thế mà thanh-niên ta thuở
ấy không cao bồi.
Là v́ thế hệ tuổi trẻ
tiền chiến của ta có một chỗ nhắm
để mà hướng tất cả tâm chí và hành
động của họ về cái đích ấy: độc
lập.
Trà thất, vũ-trường, hộp
đêm, hay ǵ ǵ nữa, không là nguyên-nhơn chánh của
sự buông trôi để hưởng-thụ. Những ánh
đèn mê hoặc ấy không làm sao rù quến những con
thiêu thân được, nếu những con thiêu thân kia có
hào quang khác, rực rỡ hơn để mà say mê.
Khi thanh niên được hào quang lư
tưởng ch́ếm ḷng họ th́ vũ nữ hay tiên nga
đi nữa cũng chỉ là tṛ đùa giây lát, mà họ
quên ngay sau vài giờ.
Nếu ta cứ lười nghĩ,
dễ dăi t́m những nguyên-nhơn dễ-dàng và
gạt-gẩm như thế th́ không bao giờ ta trừ
được căn bịnh đồi trụy cả.
Chánh thủ-phạm là sự thiếu
lư-tưởng, sự rỗng không nơi trí và hồn
của con người.
Vui Sống ra đời chỉ có một
sứ mạng độc nhứt là gây cho thanh niên một
lư tưởng. Khi họ có ngọn lửa thiêng ấy trong
người họ rồi, th́ xa hoa, trụy lạc
khỏi phải trừ, cũng bị họ khinh
thường.
Tham-vọng trên đây, Vui Sống cả
quyết thực-hiện".
Đời sống làm báo
hại phần nào cho sự nghiệp văn-chương
của ông. Nhu cầu viết nhanh viết nhiều tiểu
thuyết để cung cấp cho các ‘nhựt tŕnh’, do
đó thiếu phần chăm sóc văn-chương và
sự cô đọng. Ngoài ra ông c̣n chủ trương nhà
xuất bản Bến Nghé xuất bản phần lớn
tác phẩm của chính ông.
Nhà biên-khảo
Ngoài một vài bài nghiên
cứu về cổ văn viết chung với Nguiễn
Ngu Í về Tự t́nh khúc, T́ bà hành, Trường hận ca,
Chiêu hồn, v.v., và tập khảo luận đối
chiếu Khinh-Tâm Bệnh Và Sáng-Tác Văn Nghệ viết
chung với trưởng nam Tô Dương Hiệp. Trên
tạp-chí Bách Khoa trong hai năm 1958-1959, B́nh-Nguyên
Lộc cùng với Nguiễn Ngu Í phụ trách loạt bài
sưu tập, thích nghĩa các phương ngữ miền
Nam ("Tiếng địa phương", "Thổ
ngơi Đồng Nai" phần Ca Dao Miền Nam). B́nh-Nguyên Lộc c̣n là
tác giả hai công tŕnh nghiên cứu về nhân chủng và ngữ
học Nguồn Gốc Mă Lai Của Dân Tộc Việt
Nam và Lột Trần Việt Ngữ. Đầu
thập niên 1970, B́nh-Nguyên Lộc có vẻ sáng tác ít lại,
có thể v́ đam mê nghiên cứu, đam mê ông đă bắt
đầu từ thập niên 1950 với Phù Sa viết
về cuộc Nam tiến.
Tập Nguồn Gốc Mă Lai Của Dân
Tộc Việt Nam do nhà Bách Bộc xuất bản
năm 1971, dựa trên nhiều tài liệu khảo cổ và
nhân chủng học, khám phá về thời
"thượng cổ sử 5000 năm của dân ta".
Ông kết luận dân Việt không gốc Hán từ Bắc
thiên cư xuống mà từ biển vào. Trong suốt
gần 900 trang, B́nh-Nguyên Lộc, chứng minh Hoa-Việt có
nhiều điểm bất tương đồng và
Việt Nam ta không phải gốc Tàu, phản chứng
lại những thuyết của Nguyễn Phương và
nhiều nhà nghiên cứu Pháp. Phương-pháp luận
của ông đi xa hơn phương-pháp cứng rắn
của Nguyễn Phương chỉ căn cứ trên
những tài liệu lịch sử mà bỏ qua những
phương-pháp nhân văn và khoa học khác. Theo B́nh-Nguyên
Lộc, chủng Mă-lai nguồn gốc của dân-tộc
Việt Nam phát tích từ Hi-mă-lạp-sơn và di cư
từ vùng Hoa Bắc mà ông gọi là Cổ Việt. Cũng
theo ông, nên gọi văn hiến khi đă tiến tới
chế độ vua chúa rồi, do đó theo ông, bốn ngàn
năm văn hiến ta vẫn dùng là sai v́ theo tiêu chuẩn
này, đến năm 1970 dương lịch, Việt Nam
chỉ mới có 2578 năm văn hiến mà thôi - trùng
với thời kim khí cũng 2578 năm. B́nh-Nguyên Lộc
cũng mở tầm nh́n khiến người Việt
phải nghĩ đến nguồn gốc đa dạng
của dân-tộc. Từ khi được xuất
bản, công tŕnh của B́nh-Nguyên Lộc đă
được nhiều nhà nghiên cứu tham khảo, trích
dẫn cũng như phản bác. Dù ǵ th́ công tŕnh của
B́nh-Nguyên Lộc cũng đă có công lớn đặt
lại nguồn gốc của dân-tộc Việt Nam
một cách khoa học hơn là chỉ căn cứ trên
huyền thoại và lưu truyền. Hai ba thập niên sau
nhờ có những tiến bộ mới về huyết thống,
di truyền học (DNA) và sinh học, đă có thêm những
chứng minh mới hơn và cũng đă công nhận
nhiều quan điểm năm 1970 của B́nh-Nguyên Lộc.
Theo tiết lộ của nhà văn Vơ Phiến (21) th́
đây mới chỉ là tập 1 v́ B́nh-Nguyên Lộc đă
viết xong tập 2 chưa kịp xuất bản th́
xảy ra biến cố 1975.
B́nh-Nguyên Lộc qua Lột
Trần Việt Ngữ (Nguồn Xưa, 1972. 408 tr.)
đă dùng ngôn ngữ để t́m nguồn gốc
dân-tộc Việt Nam, một khía cạnh mà cuốn
Nguồn Gốc Mă Lai Của Dân Tộc Việt Nam mới
khởi dẫn nhưng chưa đi sâu vào chi tiết. Trong
Lột Trần Việt Ngữ,
ông chứng minh tiếng Việt vốn đa-âm nếu
không muốn nói là ta đă có một văn tự riêng,
trước khi bị Nhâm Diên và Tích Quang đem chữ Hán và
văn hóa Tàu phổ biến và Mă Viện đem quân sang xâm
lăng tiếp nối công việc đồng hóa. Dấu
vết đa-âm ngày nay c̣n thấy trong những từ kép
như chợ búa, múa may, cây
cối, v.v.; đó cũng là dấu vết nguồn
gốc Mă-lai của tiếng Việt. Ngôn ngữ Việt
c̣n cho thấy nhiều dấu vết của Phù Nam và
ảnh hưởng tiếng Trung Hoa ngoài nguồn bác
học Nho c̣n có nhiều ảnh hưởng của
tiếng nói Triều Châu và Quảng Đông b́nh dân nhất
là ở miền Nam. Đó cũng là lư do có sự khác
biệt ở tiếng Bắc và tiếng Nam, như to / bự, gió chướng / gió
cấn, thế à / vậy hả, giả vờ / làm bộ,
v.v. Cũng trong nghiên cứu này, B́nh-Nguyên Lộc cho biết
ngôn ngữ Nhựt-bổn cũng chịu ảnh
hưởng hai nguồn Mă-lai như Việt Nam, nhưng
cách tiếp thụ có khác, và nửa dân Nhựt gốc
Nam-Dương. Hai nguồn Mă-lai là Lạc Địch
tức Lạc bộ Trăi (austroasitique, chuy) ngoài Việt Nam
và Nhựt c̣n cả Đại Hàn, và Lạc bộ Mă
(austronésiens) là gốc của Nam Dương và người
Mường ở Bắc Việt.
Trong các sáng tác, hơn
một lần, B́nh-Nguyên Lộc đă nêu những hiểu
biết về ngôn ngữ của ḿnh (như truyện Nóp,
Đệm, Chiếu Mùng, v.v.). Trong Đ̣ Dọc, ông phân biệt con chàng hiu với con
chẫu chuộc của miền Bắc (tr. 63), bánh xèo
với bánh khói của người Huế (tr. 17); và bánh tét bánh chưng trong
Quyển Gia Phổ. Trong các truyện ngắn viết
cuối đời ở hải-ngoại, ông thiên về
khám phá nhân chủng và ngôn ngữ, trong khi trước đó
đôi bận ông đă để lộ sự lưu tâm
thường trực này của ông, như một
đoạn lạc lơng trong tiểu thuyết Đ̣ Dọc:
"Chỉ có vào ở vài ngày trong một làng dựa sông
Đồng Nai trên Biên Ḥa, cảnh đẹp hơn
dưới ḿnh, người rất văn vật, và ḷng
người, chí rất
Việt Nam chớ không phải là tao loạn tâm hồn Cao Miên,
Ấn Độ, Trung Hoa như ở vài làng dưới ta
là cái ngă ba văn hóa Hoa Ấn" (tr. 65).
B́nh-Nguyên Lộc ngoài ra
đă soạn xong những bộ Tự Vựng Đối
Chiếu 10 Ngàn Từ, Tự Vựng Danh Từ Mă-Lai Mà Trung
Hoa Vay Mượn, v.v. đến nay vẫn chưa
được xuất bản (cùng trường hợp với Sửa Sai Cổ Sử, Từ
Điển Cổ Ngữ Mă Lai Đối Chiếu, Trường
Giang Cửu Long, Đổ Xô Vào Nam, v.v.) (22). Cùng một lănh vực nghiên cứu
ngôn ngữ Việt Nam, B́nh-Nguyên Lộc trở về
nguồn gốc nhân chủng, khảo cổ, trong khi
Vương Hồng Sển, tác giả Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam (1993)
đi t́m nguyên ngữ từ văn liệu lịch sử
và địa lư, và Lê Ngọc Trụ, tác giả Chánh Tả Việt Ngữ
(1954), Việt Ngữ Chánh
Tả Tự-Vị (1972) và Tầm
Nguyên Tự Điển (1993), truy khảo sự biến
thể lịch sử, tự-nguyên và âm-vị tiếng
Việt, dơi theo biến thiên của vận và thinh cũng
như luật ngôn ngữ để viết cho đúng chính
tả (hay để "viết ít sai chữ Việt" như ghi
ở tiểu tựa cuốn Chánh Tả Việt Ngữ). Cuốn sau cùng, Tầm Nguyên Tự Điển, có thêm phần
"tương đồng ngôn ngữ" gồm
những tiếng Việt vay mượn lẫn nhau với
các dân-tộc vùng đông-nam-á. Những khám phá của các
vị này nhất là của B́nh-Nguyên Lộc có thể giúp
t́m nguồn gốc dân-tộc Việt Nam và lịch sử
nhân chủng vùng đông-nam-á. Có thể khám phá ngôn ngữ
học của B́nh-Nguyên Lộc chưa đủ để
xác thực nguồn gốc dân-tộc và có thể bị
những tiến bộ khoa học mới gần đây
lung lay giả thuyết! Nhưng rồi sẽ có những
tiến bộ khoa học và nhân chủng khác phủ
nhận hoặc vô hiệu hóa những kết luận
của hôm nay. Dù ǵ th́ những khám phá của B́nh-Nguyên
Lộc đă là những đóng góp quư báu cho lănh vực ngôn
ngữ cũng như nhân chủng học về dân tộc Việt-Nam đa
chủng và chịu nhiều biến động và tai
ương!
*
Nhà văn B́nh-Nguyên Lộc xem văn
chương là lương tri của thời đại, do
đó ông đă kiên tŕ trong đường hướng này.
B́nh-Nguyên Lộc yêu nước từ căn bản t́nh yêu
đất, yêu làng quê nơi chôn nhau cắt rún. Trong tác
phẩm, B́nh-Nguyên Lộc rơ là có chủ trương
đề cao và ǵn giữ cội nguồn dân tộc, đề
cao t́nh-yêu quê hương, đất nước, thiết
tha với lịch sử dân tộc - thiết tha
đến độ khảo cứu tận nguồn gốc
dân-tộc với bộ Nguồn
Gốc Mă Lai Của Dân Tộc Việt-Nam. Dù một
số biên khảo của trong nước có nhắc danh
tính và tác-phẩm của B́nh-Nguyên Lộc nhưng
đến nay chưa có thể kết luận rằng
B́nh-Nguyên Lộc thuộc thành phần như Lư Văn Sâm,
Sơn Nam, Trang Thế Hy, Vũ Hạnh, v.v. hay như Nguyễn Hiến Lê trước
1975. Có chăng là những nghi vấn ở một số
nhà b́nh luận, nhà báo, hay chính-trị của miền Nam hay
ở hải ngoại như Phạm Kim Vinh (23), v.v. Trong
nước th́ vinh danh tôn ông là nhà văn "yêu nước
tiến bộ cách mạng trên văn đàn công khai Sài-G̣n
1954-1975" (24) hay là "nhà văn tiểu tư sản yêu
nước" (25), gộp B́nh-Nguyên Lộc vào chung
thuyền với Sơn Nam, Trang Thế Hy, cả những
nhân chứng mà không thể có đối chứng như
Viễn Phương (26). Nói đến yêu nước th́ ai
cũng muốn vơ vào theo định nghĩa của
ḿnh, kể cả uốn nắn lịch-sử! Tuy vậy,
nếu chỉ xét toàn bộ sự-nghiệp văn hóa và
khía cạnh tư tưởng văn-nghệ dân-tộc qua
các tác phẩm của ông, th́ theo thiển ư, cũng đă có
thể liệt ông vào hàng ngũ yêu nước
đơn-thuần và chân-chất tức yêu nước
chấm hết, không phụ đề chính-trị và
ư-thức-hệ (27).
Mặt khác, cá tính
miền Nam lục tỉnh đă rơ rệt trong nhiều tác
phẩm của B́nh-Nguyên Lộc, qua ngôn ngữ, nhân vật,
qua nhân sinh quan lạc quan theo truyền thống và cá tính con người nơi vùng đất mới và một t́nh yêu đất
nước thật đậm đà của tác giả. Cá
tính này, ngoài B́nh-Nguyên Lộc, c̣n lộ rơ hơn nữa
với các nhà văn Sơn Nam, Lê Xuyên, Ngọc Linh, v.v. -
mỗi người một cung cách riêng. Và một B́nh-Nguyên
Lộc nếu c̣n lại trong ḷng người đọc của
ông như có lần ông đă trả lời với nhà
văn Nguiễn Ngu Í đă dẫn ở trên, phải
chăng là phong-cách lục-tỉnh b́nh dị và cởi
mở, không làm dáng, ráng làm vui, xuề x̣a, không lư thuyết
văn chương, v.v. Nhưng rơ rệt là B́nh-Nguyên
Lộc đă ư thức sứ
mạng văn chương của ḿnh và ông vẫn
được xem là nhà văn điển h́nh miền Nam.
Chú-thích:
1.
Lê Phương Chi. "Phỏng vấn nhà
văn B́nh-Nguyên Lộc". Tin
Sách, 32, 2-1965, tr. 24.
2.
Sơn
Nam. "Đọc tác phẩm đầu tay của
B́nh-Nguyên Lộc", Thời
Tập, số 12, 10-1974, tr. 4.
3.
Truyện Quán Tai Heo đăng báo Tiểu
Thuyết Thứ Bảy năm
1960, trong truyện có một bài
thơ của Minh Phẩm sau được Phạm Duy
phổ nhạc và nhiều người vẫn nghĩ là
của B́nh-Nguyên Lộc. Theo lời kể của B́nh-Nguyên
Lộc khi Lê Phương Chi phỏng vấn năm 1965
(Bđd, tr. 26), th́ Quán Tai Heo là một truyện in trong
tập Quán Bên Đường (?). Tác giả cho biết ông
viết về một người bạn tên Minh Phẩm và
trong truyện có trích thơ người bạn này, sau
được Phạm Duy phổ nhạc. Thật ra
tựa tập truyện là Quán
Tai Heo, Cao Huy Khanh trong bài viết trên Thời Tập số 12, 10-1974, đă ghi là xuất bản năm 1960 và nhà
Vạn Xương tái bản năm 1967, bàn sau này gồm
156 trang và ở cuối tập có in kèm phụ-bản bài
phổ nhạc của Pham Duy với tựa "Khoai
ngọt bánh đắng". Minh Phẩm là nhân vật
có thật, chính là nhà văn
Trang Thế Hy; lúc B́nh-Nguyên Lộc viết truyện và
đăng báo (1959) th́ TTH đang hoạt động bí
mật.
4.
Đ̣ Dọc. Bản chụp lại
của nhà Xuân Thu (Los Alamitos CA), s.d., tr. 72-75.
5.
Nguyễn Nam Anh. "Phỏng vấn nhà
văn B́nh-Nguyên Lộc". Văn
SG, 199, 1-4-1972, tr.2.
6.
Nguyễn Nam Anh. Bđd, tr. 13.
7.
Bàng Bá Lân.Văn, Thi-Sĩ Hiện
Đại: Kỷ Niệm-Nhận Định Tập 2
(Sài-G̣n: Xây Dựng, 1963), tr. 15, 26.
8.
Trích lại từ Sơn Nam. "Đọc
tác phẩm đầu tay của B́nh-Nguyên Lộc".
Bđd. tr. 5-6.
9.
"Cây mắm trong ‘Rừng Mắm’ của
nhà văn B́nh-Nguyên Lộc" Văn
Học Nghệ Thuật www.saomai.org, 360, 13-01-1998.
10.
Nguiễn Ngu Í. Sống
Và Viết Với .... (Sài-G̣n: Ngè Xanh, 1966) Los Alamitos CA :
Xuân Thu tb, tr. 234.
11.
Quán Tai Heo, tr. 76. Trích theo Cao Huy
Khanh, Thời Tập, số 12,
10-1974, tr. 30.
12.
Văn Học (CA), số 5, 6-1986,
tr. 19-24.
13.
Phỏng vấn Nguyễn Nam Anh. Bđd, tr. 5: "Vào năm 1957 th́ tôi viết mỗi
ngày11 feuilletons. Nhưng sau đó chính An Khê và Lê Xuyên dẫn
đầu. An Khê có năm viết tới 12 feuilletons
mỗi ngày, nhưng tôi chưa hề thấy ai vượt
qua con số 12 nổi".
14.
Nguiễn Ngu Í, Sđd, tr. 232.
15.
Lê Phương Chi. Bđd, tr. 23.
16.
Nhện Chờ Mối Ai, Sài-G̣n : Nam Cường,
1962. T. 2, tr. 18.
17.
Theo Bàng Bá Lân. Sđd, tr. 49-50.
18.
Theo Hoàng Vyễn Ngư. "Cuộc
đời các nhà văn Việt-Nam: B́nh-Nguyên Lộc". Nghệ Thuật, 1966 , tr. 28.
19.
Tuyển tập Thơ. Sài-G̣n :
Đông-phương, 1967. Tr. 5.
20.
Theo Nguiễn Ngu Í, Sđd, tr. 237-8.
21.
"B́nh-Nguyên Lộc, một nhân sĩ trong
làng văn". Tuyển
Tập B́nh-Nguyên Lộc (Paris?: An Tiêm, 1999). Tr. X.
22.
B́nh-Nguyên Lộc c̣n là dịch giả một
số truyện Pháp của Alphonse Daudet, Anatole France, Jules
Renard. X. Bàng Bá Lân. S đd, tr. 22.
23.
Phạm
Kim Vinh. Giải Phóng Việt-Nam, Huyền Thoại,
Thực Tại Và Hi Vọng. [California]: Tủ Sách PKV,
1986, tr. 201. Nhưng trong bản in lần 2 của NXB Văn
Lang, th́ danh xưng BNL được thay bằng
cụm-từ ‘một nhà
văn lớn gốc quốc gia’. V́ chiến tranh ư
thức hệ và hoàn cảnh, một số trí thức và
nhân vật cộng đồng ở ngoài nước
cũng như kẻ cầm quyền trong nước
từng và vẫn có tính cả-nghi và ám ảnh.
24.
Văn
Học Yêu Nước Tiến Bộ - Cách Mạng Trên
Văn Đàn Công Khai Sài-G̣n 1954-1975. Tp.HCM : Nxb Văn Nghệ Tp.HCM, 1997.
25.
Nhăn do
Sơn Nam gán cho B́nh-Nguyên Lộc khi viết tựa cho
bản in lại Bước Lang Thang Trên Hè Phố
Của Gă B́nh-Nguyên Lộc (NXB Trẻ, 1999).
26.
Trần Phỏng Diều trong bài "’Con Tám cù lần’ của B́nh-Nguyên Lộc:
người ở thành thị hoài niệm về chốn
thôn quê" (www.phongdiep.net),
đă thuật lại "sau Mậu Thân 1968, hàng loạt
cơ sở cách mạng của ta bị vỡ, nhà thơ Viễn
Phương đă đến gặp ông (BNL) để
gầy dựng lại cơ sở mới th́ ông khẳng
định rằng: “Tôi vẫn là người của các
anh mà!”. Nói điều này để thấy rằng,
mặc dù sống và viết dưới ách thống trị
của kẻ thù, nhưng B́nh-Nguyên Lộc vẫn là
người của cách mạng, vẫn có tấm ḷng yêu
nước vô cùng sâu sắc" (Viễn Phương.
"Thương một nhành mai". Kiến thức ngày nay, số Xuân Mậu Dần
1998).
27.
Vào thời
điểm 2007, Nguyễn
Thị Thu Trang trong bài "Vài nét về văn xuôi đô
thị miền Nam giai đoạn 1954-1975" (Nghiên Cứu Văn Học,
số 5, 2007) dù ǵ cũng đă có cái nh́n thoáng, mở,
hơn : " Đi qua
những thành kiến cực đoan cá nhân, những xung
đột về chính trị, những cuộc tranh
luận sôi nổi về vấn đề truyền
thống và hiện đại, những biến hóa
nhiều chiều của văn chương
đương thời..., tác phẩm của nhiều nhà
văn như Sơn Nam, B́nh-Nguyên Lộc, Vơ Hồng, Trang
Thế Hy, Nguyễn Văn Xuân, Minh Quân... viết ở
thập niên 50, 60 trong ḷng đô thị miền Nam vẫn
c̣n được nhiều người yêu thích.
Điểm chung nhất và là chỗ dựa vững bền
của nó là hướng đến những giá trị văn
hóa dân tộc, là bản sắc văn hóa mỗi vùng
miền và t́nh yêu quê hương chân thành, tha thiết".
Montréal, 7-1996, 11-2007