NỖI NHỚ QUA NĂM TÁC-GIẢ
XUÂN VŨ, HỒ TRƯỜNG AN, KIỆT
TẤN,
NGUYỄN TẤN HƯNG, PHÙNG NHÂN
Nguyễn Vy-Khanh
Sau hơn một phần
tư thế kỷ bó ḿnh sống ở ngoài nước,
người Việt chúng ta thường vẫn sống
với những quá khứ đă ngày càng rời xa, với
những mảnh đất con người ngày càng thay
đổi hoặc biến dạng, với những thân
quyến bạn bè mới nhi-bất-hoặc đă
cổ-lai-hy. Cũng trong thời gian đó, nhiều nhà văn
đă có công ghi lại những nỗi nhớ, những quá
văng và kỷ niệm, thơ mộng hoặc hiện
thực. Trong bài này chúng tôi ghi lại một số nhận
xét tổng quát về một số nhà văn có liên hệ
mật thiết với vùng tỉnh Mỹ Tho - Bến Tre.
Trong chương tổng quan đầu tập Văn
Học Việt Nam Thế Kỷ XX: Một Số Hiện
Tượng Và Thể Loại,
chúng tôi đă có dịp nhận xét rằng sau 1975, ở
hải ngoại đă có hiện tượng đặc
biệt ‘văn chương miệt vườn’, v́ đây
là lần đầu trong lịch sử người
miền Nam lục tỉnh phải bỏ nước ra
đi: một văn nghệ "miệt vườn"
nở rộ. Có thể nói với biến cố 30-4-1975,
trong hoài niệm người miền Nam đă làm sống
lại một "mảng" văn học trước
đó âm thầm và bị lơ là. Miền Nam cộng ḥa là
của chung, nhưng người miền Nam lần
đầu phải bỏ quê hương đông đảo
đă thành công ghi lại quá văng văn hóa, t́nh tự con
người và những thú điền viên không c̣n nữa
hay không c̣n hy vọng t́m lại! Vơ Kỳ Điền,
Kiệt Tấn, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Văn Ba,
Sĩ Liêm, Nguyễn Thị Phong Dinh (Nguyễn Vĩnh Long),
Nguyễn Thị Long An, Huỳnh Hữu Cửu, v.v. Nếu
ở giai đoạn ngay sau 1954, văn học miền Nam
ghi nhận sự đóng góp mạnh mẽ của
người miền Bắc và Nghệ Tỉnh B́nh khi
họ phải rời quê cha đất tổ, phải
vượt tuyến lội sông hoặc băng rừng qua
Lào, th́ sau 1975, là thời của người miền Nam
"lục tỉnh" (1). Nhưng vào những năm
cuối thế kỷ XX, "mặt trận" văn
chương "miệt vườn" lặng lờ
hơn, người viết ít lại và ít tác phẩm
hơn. Tính chất khai phóng của văn học miền
Nam dần mất phần nào khía cạnh bộc phát hồn
nhiên văn chương và t́nh ư được lăng-kính
tâm và trí thức gạn lọc hơn. Khói Sóng Trên Sông
(2000) của Nguyễn Văn Sâm (2) là một thí dụ
đáng kể!
XUÂN VŨ
Toàn bộ tác phẩm của
ông từ trước 1975 đến nay, là cuộc
đời từ kháng chiến đến chống
Cộng, từ những ngày Thanh niên tiền phong Việt
minh thời 1945, tập kết ra Bắc 1955, trở lại
miền Nam 1971 và hồi chánh. Nỗi nhớ ở đây
lùi xa nhất, thời miền Nam hăy c̣n là đất
thuộc địa Pháp, thuở thanh xuân của tác giả.
Phần chính tác phẩm
của Xuân Vũ viết về kinh nghiệm kháng chiến
và cộng sản Hà-Nội. Bộ Đường Đi
Không Đến khởi từ 1973 đến 1996 gồm
năm tập, hồi kư vượt đường ṃn
Hồ Chí Minh. Kế tiếp là bộ 2000 Ngày Đêm
Trấn Thủ Củ Chi viết chung với Dương Đ́nh
Lôi, gồm 2250 trang. Bộ Văn Nghệ
Sĩ Miền Bắc Như Tôi Biết, đă in 3
tập cho đến 1998 là những chân dung lồng t́nh
cảm, ứng xử của con người Nam-bộ Xuân
Vũ. Cùng chủ đề c̣n có các tập bút kư, tiểu
thuyết: Cách Mạng Tháng 8 Cha Đẻ C̣ng Số 8,
Sông Nước Hậu Giang, Bùn Đỏ, Kẻ Sống
Sót, Đỏ Và Vàng,... và các tập truyện ngắn Thiên
Đàng Treo, Thiên Đàng Treo Đứt Dây, Ông Lăo Thổi
Bong Bóng, Con Người Vốn Quí Nhất, Tự-Vị
Thế Kỷ,... Qua đó, ông đă liên tục vẽ
lại chân dung và hành tŕnh của những con người
Nam-bộ chân thành yêu nước bị lợi dụng
tập kết, bị lừa và lợi dụng suốt hai
cuộc chiến tranh 1945-54 rồi 1957-1975. Người
đọc nhận chân những giả trá của
Việt-cộng, những mưu mô, mánh khóe, những
"đ̣n" chính trị, những tầm thường
của những khuôn mặt "lớn"! Xuân Vũ
tự thuật cuộc đời ông, cũng là của
nhiều người, cho thấy hận thù của ông
đối với tập đoàn lănh tụ và chế
độ cộng sản Hà-Nội. Những phản
ứng, ḱnh chống của những người bị
lợi dụng này ở ngay giữa ḷng Hà-Nội cũng là
những phản ứng, ḱnh địch với một
thứ tâm địa và con người đất
Bắc,.. "Kỳ Cục là cảm giác đầu tiên
của tôi đối với cộng sản" (3). Lỡ
tập kết ra Bắc, ông "trốn" chế
độ, vào Nam để phải chứng kiến
những tàn khốc của con đường ṃn mang tên
lănh tụ miền Bắc, bộ Đường Đi
Không Đến đă làm chứng cho những đày
đọa có-một-không-hai này! Rồi chuyện trong
bưng, chuyện chính trị, xă hội và cả t́nh ái
những nhân vật của cục R.
Loại thứ hai gồm
hồi kư và truyện viết về miệt vườn,
chuyện đồng quê và xă hội thời thanh b́nh
cũng như thời chiến và hậu chiến: Tấm
Lụa Đào, Cô
Ba Trà, Quê Hương Yêu Dấu, Trăng Kia
Chưa Xế, Vàng Mơ Bông Lúa, Những Độ Gà Ṇi,
Xóm Cái Bần, Buồng Cau Trổ Ngược, v.v. Trong
khi các tập Ngọc Vùi, Hột Xoàn Là Của Trời Cho,...
là chuyện cộng đồng người Việt ở
hải ngoại. Ngoài ra mới 1999 đây, ông đă xuất
bản truyện do chính ông bằng tiếng Anh, The Survivor
(Kẻ Sống Sót) như một tiếp tục sứ
mạng với độc giả tiếng Anh!
Xuân Vũ có trí nhớ, có tài
cộng với cái duyên con người Nam-bộ kể
chuyện đa dạng, ngôn ngữ hồn nhiên, khi tṛn
trịa, khi dài ḍng, khi lư luận cho ra lẽ,... Mỹ Tho với ông là nơi ông
"từng ăn những ổ bánh ḿ ba-tê gan tuyệt
trần, đến nay tôi vẫn chưa t́m thấy ở
đâu ngoài Mỹ Tho thành phố nguy nga của tuổi
học tṛ tôi, nơi tôi nghe Trần Văn Trạch hát
những bản nhạc t́nh đầu tiên, nơi tôi
biết "hôm nay lạnh mặt trời đi ngủ
sớm" của Xuân Diệu..." (4).
Viết đối với Xuân
Vũ "là một việc khó khăn, cao quư, gian khổ và
đau khổ, - lắm khi c̣n đầy đe dọa.
Nhưng nếu chết đi mà c̣n được tái sinh
theo thuyết luân hồi của nhà Phật, th́ tôi xin
được tiếp tục cầm bút để
viết nốt những ǵ c̣n bỏ dở ở kiếp
này. Ôi, cây bút gầy g̣ nhỏ bé! Nhưng nếu không có nó
th́ loài người chỉ là một lũ người
câm" (5).
HỒ TRƯỜNG
AN
Mỹ Tho là quê ngoại và là
nơi ông trải qua thời niên thiếu với ngôi
trường Nguyễn Đ́nh Chiểu. Qua gần 40 tác
phẩm đă xuất bản, chuyện miệt
vườn với Hồ Trường An đă là một
trường thiên tiểu thuyết, trong đó các nhân
vật tiếp nối nhau, các chuyện t́nh, ghen
tương và những khung cảnh gia đ́nh miệt quê
cũng như tỉnh lỵ. Ông chứng tỏ sống và
biết nhiều, đời lính và làm văn nghệ
của ông trước 1975 đă giúp ông không ít trong việc
sáng tác chủ yếu từ khi sống tị nạn ở
Pháp.
Đọc Hồ
Trường An dễ thấy cái hoa ḥe trăi rộng của
ông có khi làm người đọc bối rối, lạc
lỏng, không phải như trong câu chuyện dài t́nh
tiết của Xuân Vũ, hay dài cố ư của phim bộ,
mà là ở chi tiết, h́nh dung từ, cái trang điểm
thêm khi đă đủ tươm tất! Cách đặt
tên nhân vật lại là một đặc điểm khác
của ông: tên đặt cho nhân vật quá đẹp không
hợp với hoàn cảnh địa lư thôn quê
thường dùng tên cục mịch hơn, "dân gian"
hơn. Chỉ lấy thí dụ cuốn Phấn Bướm, nhân vật nào là Diễm
Lăng, Lệ Phỉ, Phương Tần, Mỹ Cần,
mà ngay thú vật, bồ câu được gọi là
Xuyết Cẩm, Ánh Tuyết, Như Băng, Hoàng Hạc,
ngựa th́ Đạm Lớn, Đạm Nhỏ, Bích,
Huyền Ô,... Tên món ăn dù không cao lương mỹ
vị vẫn được tác giả âu yếm
bác-học đặt tên!
Từ những tác phẩm
đầu tay Lớp Sóng Phế Hưng (1985), Phấn
Bướm, Hợp Lưu (1986), Đêm Chong Đèn,
Ngát Hương Mật Ong,... đến những
tiểu thuyết sau này như Trang Trại Thần Tiên, Vùng
Thôn Trang Diễm
Ảo, Chân Trời Mộng Đẹp, T́nh Sen Ư Huệ (1999)
và những tập truyện ngắn Tạp Chủng,
Chuyện Miệt Vườn, Chuyện Quê Nam, Chuyện Ma
Đất Tân Bồi,..., Hồ Trường An
đưa người đọc trở về và sống
lại với miền đất Tiền và Hậu
giang như Mỹ Tho, Trung Lương, Vĩnh Long, Rạch
Giá,..., với đủ
hạng người, dân quê, nửa quê nửa thành thị,
người Minh Hương, dân ruộng rẫy, thương
hồ, đào kép cải lương, trẻ già,... chung
đụng trong một không khí mát lành của chốn quê mà
cũng đầy hâm hấp dục t́nh, tự nhiên như
thời tiết, như con nước phù sa,... Người
đọc cũng được nh́n thấy những
cảnh đẹp miền quê, những căn nhà lợp
bằng lá dừa nước, những mảnh đời
sống của các thập niên 1950, 60, 70. Trong tác phẩm
của Hồ Trường An có những biến cố
nhưng thường là đời sống b́nh nhật,...
với những tiếng nói lanh lảnh, ngọt ngào,
những tiếng chửi có vần du dương,... Trong
khung cảnh đất lục-tỉnh hoặc giữa
Paris xứ người - như truyện Tên, Thứ,
Hỗn Danh thú vị!
Trích đoạn tiếng than
khóc của một cặp thương hồ: "- Hồi
đó tui biểu anh đi tập hát cải lương, anh
không nghe; anh nghe lời ông bầu gánh Rương Đen
đi theo nghề hát bội. Giờ đây hát bội
hết thời, không ai thèm coi. Gánh Rương Đen ră
tại chợ Lách, may mà tui c̣n chút đỉnh tiền mua
chiếc ghe để về đây vớt phân thiên hạ.
Vớt ba cái thúi tha hoài, rồi chẳng biết ngày nào
về quê quán đây! Năm cùng tháng tận rồi mà ḿnh
chưa mua được chai rượu, con vịt
để dành ăn Tết.
Tiếng người đàn
ông lè nhè:
- Tao biểu mày nín. Số tao
là số bần cùng, dẫu có đi theo cải
lương, th́ cái giọng thùng thiếc bể chắc ǵ
tao được làm kép chánh đâu. Nghề hát bội là
nghề ông cha tao nuôi các cô, các chú, anh chị em tao đă hai
đời rồi, lẽ nào tao phụ nó..." (Bèo
Bọt, Tạp Chủng, tr. 18).
Tính dục có khi
thường trực, như bản năng, có khi như là
tác động của tiềm thức, của quá khứ.
Nói chung là cái tự nhiên, bộc phát, như hơi thở,
như ăn uống. Nhưng nh́n kỹ, toàn bộ tác
phẩm của Hồ Trường An có thể nói có cái
thế giới của giống thứ hai (deuxième sexe), có
nữ tính, màu hồng, ở những không khí, tâm lư dịu
dàng hoặc sôi xục ở bên trong, ở cái hồn nhiên,
thật thà dễ tin người, ở những đam mê
đắm đuối không thể thắng, ngừng,
ở những món ăn, cách ăn cách mặc, ở y
phục, ở những dáng điệu, bộ
tướng, bộ đi, ở cái không khí đào hát,
cải lương, đời như kịch tính, ở
cách đặt tên nhân vật nhất, v.v. Tóm, của màu mè,
của mùi và lẳng! Khi tả những tiếng hát, có
thể "quỉ khốc thần sầu", có thể
vô danh, Hồ Trường An tỏ ra không khác ǵ một bác
sĩ chuyên viên chăm sóc dây gân hay thanh đới, thanh âm
của người ca sĩ! Nếu truyện và thơ Trân
Sa toát một "nam-tính" th́ toàn thể tác phẩm
của Hồ Trường An mang một
"nữ-tính" rơ rệt, bao trùm!
Hồ Trường An trong
một vài tiểu thuyết đă sai thời gian tính,
như khi để một bà già đầu thập niên 1950
lư luận ăn nói như sau 1970. Cả về y phục,
kiểu cách,... v́ chi tiết, mỹ hóa, kỹ xảo quá có
thể khiến người đọc đâm nghi ngờ
đọc tiểu thuyết hơn là chuyện phong tục
miệt vườn!
Nhưng cũng nhờ trí
nhớ tốt, trong cả chi tiết, do đó không lạ
khi ông là người thành công nhất ở hải ngoại
viết về cuộc đời sự nghiệp các danh
ca, đào cải lương, tài tử phim ảnh, hoặc
giới văn nghệ sĩ, báo chí, v.v. với Cơi Kư
Ức Trăng Xanh, Chân Trời Lam Ngọc, Giai Thoại
Hồng, Theo Chân Những Tiếng Hát ,...! Và rơ rệt là
ông chịu ảnh hưởng truyện b́nh dân Tàu như Phấn-Trang
Lầu,... và truyện "nghĩa hiệp", "ái
t́nh tiểu thuyết" như của Hồ Biểu
Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, Phú Đức,...
Cả một truyền thừa nhiều biền ngẫu, nhạc tính!
KIỆT TẤN
Kiệt Tấn sống hiện
sinh hết ḿnh, sống thật, trong đời sống
cũng như t́nh yêu. Nhân vật Kiệt nổi loạn,
sống và đ̣i sống, bất kể hậu quả. Ông
hết ḿnh v́ không giấu diếm với người
đọc. Một tâm hồn thẳng tuột, không sợ
mất ḷng, không cả rào đón lo "an ninh" cho "cá
nhân"!
Trong tiểu thuyết Lớp
Lớp Phù Sa, ông viết về phong tục và đời
sống xưa khó khăn, t́nh con người hảo
hớn và băng đảng hội kín. T́nh cảm
đặc biệt tràn đầy, cảm động trong Nụ
Cười Tre Trúc về người mẹ, về
"nụ cười tre trúc ŕ rào". Trong nỗi
nhớ, giữa những người thân và bạn bè c̣n có
những bà-già-quê-hương bán hàng rong mà tác giả đă
gặp. Năm Nay Hoa
Đào Lại Nở (NCTT) chính là nỗi nhung
nhớ quê nhà qua một bà bán đậu phọng, nỗi
nhớ mỗi năm hoa đào lại nở ở xứ
người!
Ông hay trích thơ nhạc, câu
hát cải lương, cả ngay trong câu văn, may mà tác
giả thường cẩn thận cho in chữ nghiêng:
"... Vài con vịt xanh đỏ xinh đẹp nhởn
nhơ trên mặt sông. Vịt nằm bờ mía rỉa lông,
cám cảnh thương chồng đi học
đường xa. Vịt đưa mỏ rỉa lông
chăm sóc sự ph́nh nổi của ḿnh. (,...). Thôi th́ em
chẳng yêu tôi, leo lên cành bưởi nhớ người
rưng rưng. Bứt rời em, tôi c̣n biết sống
với ai?" (EƠBĐT, tr. 99).
Vấn đề xác thịt
trở nên yếu tố không thể thiếu của
đời sống nổi loạn đó. T́nh dục ở Kiệt Tấn không là vấn
đề để bàn, mà phải sống, phải
hiện sinh, với điên cuồng nhiệt t́nh, với
tối đa cảm xúc. Trong nhiều tiểu thuyết và
truyện ngắn khác nhau, người đọc
được gặp lại hơn một lần
những cô Út thời học tṛ nhỏ, cô Tuyết bán quán ở
Bắc Mỹ Thuận, Hoa bến đ̣ Rạch Miễu,
những cô gái mắt xanh tóc vàng Michèle, Danielle ở Xóm
Học (Quartier Latin) Paris, Diane, Danyèle, Louise của
đất Quebec, Canada mà nhân vật ông dịch là Ca Bá
Đại. Chưa kể những chuyện ăn chơi
nhậu nhẹt bên những cánh hồng nơi chỗ tối
tăm (Sáng Dậy Nghe Em Khóc, Những Đoá Hạnh Phúc
Không Ngờ trong Thương
Nàng Bấy Nhiêu). Nhưng bên cạnh vẫn có nhân
vật Ánh xuất hiện ở những lúc cần
thiết để "chà răng", đưa tác
giả trở lại thực tế cuộc đời.
Tính chất tự-truyện
khiến tác phẩm ông thành công, dù có khi sống
sượng, như chung người yêu, Hoa, Liên, Diane,...
Không theo khuôn luân lư của đa số, chính Kiệt
Tấn đề cập đến nhưng lại cho
đó là một cách nh́n của xă hội cần phép tắc
và lễ nghi để trị an nhưng theo ông "đôi
lúc càng trị loạn, loạn càng dữ" (Thư Cho
Lộc, Nghe Mưa, tr. 242). Nhân-vật xưng Tôi từng thú "gian lận trong t́nh
yêu" v́ với đàn bà, ông tự thú "có trái tim tật nguyền ... chỉ biết si t́nh và đam mê thôi
chớ không biết yêu" (Nghe Mưa, tr. 245).
Kiệt Tấn và nhân-vật của ông đùa
t́nh với phái nữ, tinh nghịch với đời,
với ông anh (Lệ Dung Sang Tề, Thư Cho Lộc,...) và
bạn bè (ông viết bút kư thăm Montreal và Toronto cũng
đặc biệt lạ lẫm). Nhưng nghĩ cho cùng,
Kiệt Tấn hay nhân vật trong tác phẩm của ông,
đều có ư dùng kinh nghiệm sống để
vượt lên trên, làm người. Cái hết ḿnh, "dzô,
dzô", "100%" trong truyện Kiệt Tấn, chính là
Nam-tính rất địa phương đó. "Ông hôn chùn
chụt..." diễn tả đặc biệt chi li
động tác, t́nh cảm sâu, nặng như mùi cải
lương. Trong các truyện nhiều chi tiết trở
lại như những tham
chiếu, tiếp nối. Như ba truyện ngắn
Bến Đ̣ Trao Thơ, Người Em Xóm Học và Em Điên Xơa Tóc
đă mở đầu cho truyện Vườn Chanh
Miệt Biển (NCTT).
Một
đặc điểm nữa ở Kiệt Tấn là tự-kỷ
cái rốn, không chấp nhận nhận xét của kẻ
khác! Và mặt khác không biết
những nổi loạn, sống hết ḿnh của ông có ảnh hưởng ǵ đến con
người tác giả không, v́ truyện Em Điên Xơa Tóc
(sau in trong Nụ Cười Tre Trúc, 1987) chứng
tỏ người viết truyện đă từng sống
trong bệnh cảnh đó!
Nói chung, tính chất tự
truyện, hiện thực trong tác phẩm của Kiệt
Tấn đă làm mạnh thêm tính lăng tử và có phần
thi vị. Tựu trung chuyện
ăn chơi, đam mê, lầm lỡ,... của nhân vật
xưng tôi hay Kiệt đă là những tác phẩm khá thơ
mộng và thành công để lại nơi người
đọc sự quí mến, dĩ nhiên là với
người đọc không đạo đức giả!
Sống thật v́ theo ông, hạnh phúc chỉ là một
cảm giác (Nghe Mưa, tr. 243). Cũng nên ghi lại
đây quan niệm về truyện ngắn khác người
của ông: "Tôi có quan niệm về truyện ngắn
hay hoặc dở như sau: Tôi tưởng tượng
độc giả là người nữ. Khi sáng tác
truyện ngắn, tác giả rủ độc giả làm
t́nh. Nếu cả hai đều đă đời,
truyện ngắn thành công. Nếu chỉ có một bên
đă đời, truyện ngắn thất bại. Nếu
không có bên nào đă đời, truyện ngắn thảm
bại..." (Nghe Mưa, tr. 243).
Ngoài ra, cái sôi nổi, hết
ḿnh của Kiệt Tấn đă được thể
hiện dưới một h́nh thức khác cũng vốn
là sở trường của ông khi bắt đầu
nhập làng văn nghệ: thi
ca. Ở những ngày tháng đời mà kỷ niệm và
kinh nghiệm sống trút lại trong sinh mệnh bi
thương của tập thể, đất nước,
năm 1986, ông đă viết nên
tập trường thi Việt
Nam Thương Khúc xuất bản năm 1999 gồm 3100
câu song thất lục bát, tiếng ca của những
đau thương, hệ lụy thăng trầm của
đất nước, của con người Việt-Nam.
Nhà văn Nguyễn Văn Sâm khi giới thiệu đă
viết "Đó là cái không khí t́nh người bạt ngàn
thương yêu gia đ́nh và đồng loại của
những nhân vật nạn nhân, đó là sự dẫy
dụa cố thoát khỏi nghịch cảnh của
những người bị con quái vật định
mạng kéo vào ḷ tai ương. Đó là một hơi
thơ trong suốt không bao giờ lạc vận,
được phụ họa bằng những chữ dùng
trang nhă mà chính xác. Dĩ nhiên tất cả t́nh tiết và
sự kiện lịch sử xảy ra trước đây,
người đọc đă cất kỹ trong kư ức
sẽ được trí đón nhận trở về
một cách thích thú v́ Kiệt Tấn dùng những sự
kiện đó làm nền cho câu chuyện của ḿnh..."
(7). Trường thi như một bản lịch sử kư
ức đau buồn, nhắc nhở những tang
thương khổ nạn của dân tộc kéo dài cả
thế kỷ, được mở đầu như sau:
"Thân đất khách
một ḿnh xui nhớ
Hương đêm dần
dần nở khúc thương
Cửu Long Hồng Thủy
Giang Hương
Ba sông một mẹ đau
thương ngút trời
Ba chục Tết tơi
bời xương máu
Triệu hồn oan lảo
đảo đ̣i nương (...)"
Kiệt Tấn trong Thư
Ngỏ đă cho biết ông đă kết thúc
được là nhờ ‘rung
cảm phù sa’ (8):
"Trời xanh hỡi
nỗi này có thấu
Thương khúc vang vang
tấu chín từng
Phong ba rần rật tưng
bừng
Ba mươi năm giặc
nghe lừng vọng lên
Ba chục khúc trổi nên
trường hận
Hận ngút trời quốc
vận đào điên
Đảo điên sông núi ba
miền
Việt-Nam Thương Khúc
sử truyền thiên thu"
Trường thi khai mở mang
nét lục-tỉnh của Thơ Ba Mén nhưng hơi thơ tiếp rơ là xa
với những vần thơ
thiết tha nhưng trầm buồn của B́nh Nguyên
Lộc. Và cũng xa hẳn những nổi loạn tâm
hồn tuổi trẻ của những Điệp Khúc
Trái Phá (NXB Sáng Tạo, 1966):
"đêm hôm đó
khi trúng đạn
người lính giận dữ
chửi thề
rồi phun ra một búng máu
sáng hôm sau
người nông dân mang cày ra
đồng nh́n thấy vũng máu
chửi thề
rồi xẻ đường
cho máu đi vào đất
mạ gieo xuống
mạ không buồn đếm
xỉa máu của bên này bên kia
mạ mọc lên
b́nh thản
tốt tươi
khỏe mạnh"
(Trong Cơn Binh Lửa).
Bài thơ Ḍng Sông Và Con
Thuyền Hai Mươi Tuổi diễn tả những cảnh tàn khốc
của cuộc chiến tranh huynh đệ, với những tàn bạo và phi lư
chỉ tăng cường độ theo thời gian. Bài
viết cho người bạn vừa nằm xuống
ở lứa tuổi đôi mươi:
"C̣n nhớ ǵ không Gia
trong những đêm đen nào
lũ chó mực cất cổ tru thảm
thiết bên những căn nhà trụi nóc
Rồi theo đó chiến tranh trở về
với chiếc cày lửa và mầm
đạn đồng
gieo mạ xuống ruộng vườn chúng
ta
Nơi đó mọc lên những cây than đen
tuyền
và lũ quạ mun ủ rũ đôi mắt
tṛn số không
(...)
Nhớ ǵ không nhớ ǵ không hở Gia?
nhớ ǵ không
những người đàn ông không có th́
giờ để làm t́nh
những người đàn bà không có th́
giờ để cưu mang
những bào thai không có th́ giờ để
chào đời
những trẻ thơ không có th́ giờ
để nô giỡn
những cơ thể non không có th́ giờ
để già nua
ngững kẻ bạc đầu không có th́
giờ để chu toàn cái chết
C̣n nhớ ǵ hở không Gia?
con mắt chó trung thành rơi trên nền
đất cứng
bà già cụt đầu lơa lồ bên bờ
mương
đứa nhỏ chết cứng trên
đỉnh vú xanh
những phát chày vồ những cơn lửa
táp
người đàn bà rái cá bà mẹ xơa tóc
điên
những kẻ tật nguyền bị tra
tấn
những kẻ âm thầm gục dưới
gầm cầu
những kẻ bị thủ tiêu trong rừng
vắng
Nhớ lấy Gia!
nhớ lấy hết những bi thương
đó
để mai kia
vào những đêm mùa hè thật vắng
vẻ
mày kể lại cho giun dế nghe
chuyện con thuyền đứt neo
dật dờ trên ḍng sông hai mươi
tuổi
Gia ơi!
mày hăy tâm sự tuổi hai mươi của
mày
với cỏ cây câm nín
giữa khuya bưng tối
đ́u hiu
của đêm hè" (1965).
NGUYỄN TẤN
HƯNG
Không khí tác phẩm của
Nguyễn Tấn Hưng thu hẹp trong cuộc đời
của một số nhân vật khởi đầu làm
học tṛ ở quê lên Mỹ Tho trọ học với
những cuộc t́nh đầu đời, vụng về,
nơi lớp học, vườn cây. Sau thành sinh viên lên
Sài-G̣n rồi phận trai thời chiến nhập ngũ,
theo binh chủng Hải quân, theo thời gian thành sĩ quan
lên đến chức Trưởng pḥng nh́ Vùng 4 duyên
hải Phú quốc (Một
Thuở Làm Trùm, Một Chuyến Ra Khơi, Một Trời
Một Biển,...). Sau 1975 là cuộc sống tha
hương, hội nhập, vươn lên (Một Đời Để Học, Một Nỗi
Buồn Riêng, Một Cảnh Hai Quê). Nhưng rồi quê
hương Mỹ Tho và quá khứ thanh xuân của ông
trở lại ám ảnh mạnh mẽ (bộ Một
Giấc Mơ Tiên)!
Quá khứ và hiện tại
cùng sống động, do đó có khi thứ tự
thời gian như bị xáo trộn, hay v́ trí nhớ bị
hành v́ quá nhiều tầng và thứ lớp chồng
chất! Mỗi truyện của ông như có dàn sẵn, có
đầu có đích hẳn ḥi, hầu như không có
những lững lơ con cá vàng! Nhưng với Nguyễn
Tấn Hưng, khi cần, lư trí vẫn thắng t́nh
cảm, kể cả t́nh yêu; khi thấy không đi tới
đâu với một cô là nhân vật nam rút lui có trật
tự, không phiền hà, thù oán...! (MCHQ, Ta Tắm Ao Ta). Trong Một Giấc Mơ Tiên,
lang bạt t́nh ái từ nhà lên tỉnh, "sống bao nhiêu
nước cũng vừa, trai bao nhiêu gái cũng chưa
bằng ḷng", phải "bồ trong bịch ngoài",
từ Hồ Điệp, Hoài Hương ở sông
rạch, vườn cây, vai chị cũng không tha,
đến tỉnh thành như Mỹ Hạnh, Hồng
Ngọc đều là gái có chồng, trải qua những
mặn mà dục t́nh cứ như truyện dành cho
người lớn, v.v. thế mà cuối cùng Hiếu
trở về quê lấy người yêu thuở nào!
Trong bộ Một Trời
Một Biển, anh sinh viên Hải quân Tần với
người con gái gặp gỡ t́nh cờ: "Hiền
bỗng dưng mềm nhũn trong tay Tần, (...) Từng
khuy áo bật nút và, theo bản năng, bàn tay chàng ve văn
bờ vai trần, mơn mởn thịt da. Hương con
gái ngào ngạt tỏa ra từ đôi ngực đào tơ,
lồ lộ, không mặc áo sú-cheng. Nàng bất giác rùng ḿnh,
nổi da gà, khi những ngón tay chàng chạm vào đầu
vú, phớt qua phớt lại... rồi nắn bóp,
cương lên, săn gọn trong ḷng bàn tay chàng..." (tr.
177).
Gần đây ông tổng
kết mọi chuyện vô hai bộ trường thiên
tiểu thuyết Một
Trời Một Biển (1994) và Một Giấc Mơ
Tiên. Bộ sau hoàn thành nhưng chưa xuất bản, tuy
vậy có dịp đọc qua bản thảo và trích
đoạn trên một số tạp chí, chúng tôi có cảm
tưởng Nguyễn Tấn Hưng muốn nh́n lại,
vẽ lại bối cảnh tuổi trẻ của ḿnh
lồng trong bối cảnh chung của miền Nam ở
hai mươi năm trước ngày 30-4-1975. Ư tổng hợp,
không muốn để sót, dàn trải nhiều chương
tập là truyện t́nh anh sinh viên sư-phạm tên Hiếu,
dàn trải theo nghĩa t́nh yêu cho người tỉnh
nhỏ, mà cả người đô thành.
Thử
ngừng lại ở tập 4 -
Một Kiếp Nổi Trôi, là đoạn đời
thầy giáo Hiếu sau khi ra trường, về dạy
học ở tỉnh nhà, chàng như con thoi qua lại ba
người nữ, phân thân trong t́nh yêu. Một loại
đoạn cuối của một t́nh trường. Mỹ
Hạnh bạn học sư phạm nay ở Đà
Lạt, đă lập gia đ́nh với Tâm không quân, nhưng
cứ măi bị ám ảnh chuyện buồn riêng, sống
lănh cảm với Tâm nhưng vẫn liên lạc với
Hiếụ T́nh cũ không rủ cũng tới, t́nh cũ
như mới với Hiếu khi cùng đi coi thi tú tài ở
xứ Thần-kinh. Cô học tṛ Hồng Ngọc bỏ
chồng Long Khánh trở về thuê nhà ở Bến Tre
sống vụng trộm với thầy khi đă có
chửa, t́nh cờ đến t́nh cờ đi, khiến
Hiếu cứ mơ tưởng và tin nàng mang thai con
của ḿnh. T́nh vợ chồng đầy mặc cảm
với Hồ Điệp sống ở quê nhà Mỹ Tho
với đứa con trai tên An lên sáu, trong tập này
chớp nhoáng đến trường bộ binh Thủ
Đức thăm Hiếu khi chàng thụ huấn ở
đó, chớp nhoáng xuất hiện. Thêm Lăm Thúy, cô cháu chú Tiều ở
quán nước Chợ Gạo nơi Hiếu đóng quân,
một dây dưa lỏng lẻo nhất, không t́ vết!
Hiếu, một con người
sống với bổn phận và trách nhiệm, nhưng
cũng bay bướm, dễ dăi với t́nh. Làm thầy
giáo, khi chiến tranh sôi động đă lên
đường nhập ngũ và sống những giây phút
tàn cuộc của chiến tranh. Ra trường, về
lại quê nhà giữ đồn bót ở Chợ Gạo,
rồi cuối cùng bổ xung về vùng rừng U Minh
Hạ tăng phái bảo vệ căn cứ hỏa
lực Biện Hai. Cuối đời này, làm sĩ quan
giữ an ninh trục lộ chính và xa tất cả,
Hiếu hay nhậu say để t́m quên, quên những
người nữ một thời đam mê không biết
mệt!
Nguyễn Tấn Hưng yêu và
sống với t́nh, qua văn chương, ở thể
trạng... quá khứ! Có thể buồn v́ đă là quá
khứ, đă qua mất, nhưng trong cái buồn đó,
người đọc cứ mường tượng tác
giả vui sướng được sống lại
những mảnh đời đó! Có người viết
tự truyện và hồi kư để tiếc nuối và buồn
đau, Nguyễn Tấn Hưng th́ ngược lại.
Những cái trắc trở của cuộc đời và
t́nh yêu mà Nguyễn Tấn Hưng
nói đến rồi ra cũng ngọt ngào, tṛn
trịa, đâu ra đó, không tàn nhẫn, oái ăm. Cô
học tṛ Hồng Ngọc ôm bụng chửa bỏ đi
không để lại dấu vết, với Hiếu
chỉ như một tiếc nuối, một nghi ngờ
thoáng qua, mà không là nỗi bất hạnh lớn lao! Cô
bạn đồng học rồi đồng nghiệp
Mỹ Hạnh, sau những ngày cùng đi coi thi bên nhau và
cả gần gũi xác thịt một cách tự nhiên
lẫn chút lăng mạn đó, rồi đường ai
nấy đi, chồng vợ ai nấy về, nhung nhớ
th́ có mà quyết liệt t́m lại nhau th́ không! Phải
chăng đấy là nhân sinh
quan con người lục-tỉnh? Có mặn mà, hết
ḿnh, nhưng khi đă ra đi, đă mất th́ cũng
chẳng chết ai! Không hận t́nh mà cũng chẳng
biện bạch, làm lớn chuyện!
Nguyễn Tấn Hưng
"thật" khi tiểu thuyết hóa quá khứ,
cuộc đời. Thật trong ư muốn sống lại,
làm sống lại, nhưng ở những chương
cuối, tính thời sự và lư tính của người
viết khiến trường thiên tiểu thuyết như
khựng lại, như không thật - dù vẫn biết
đấy là tiểu thuyết! Hiếu quẩn quanh ở
những chi tiết, diễn biến thời sự ai
cũng đă biết. Ở đây, Nguyễn Tấn
Hưng đă để dữ kiện choán hết chỗ
và đánh mất cái tài tiểu thuyết hóa của ḿnh!
Ngoài ra, trong truyện của
Nguyễn Tấn Hưng hay có cảnh sex: t́nh dục được ông tả như là
hậu quả tất nhiên của t́nh yêu, bất kể hanh
thông hay trục trặc. Khi c̣n là học tṛ, t́nh dục c̣n
ngại ngần, đến khi lên Sài-G̣n trọ học th́
mănh liệt hơn, t́m kiếm hơn, đến khi đă
là sinh viên sĩ quan hay ra trường hải quân, t́nh
dục bất kể ngày mai. Mỗi giai đoạn một
cường độ và "lập trường" khác
nhaụ Nh́n chung, toát cái không khí xác thịt tự nhiên,
với những quan sát đặc biệt chi tiết và tâm
lư dành cho nhân vật nữ trong khi tác giả hay lơ là nhân
vật nam, như cố t́nh khỏa lấp chất tự
truyện chăng?
Toàn bộ tiểu thuyết có
thể được coi như một tác phẩm liên-văn-bản, nói theo ngôn ngữ
thời thượng liên mạng. Riêng tập 4 gồm 11
chương, mỗi chương có thể đứng riêng
ở dạng truyện ngắn, nhưng người đọc
vẫn bị cốt chuyện thu hút bắt phải
đọc tiếp! Không c̣n là những vụng trộm
tuổi trẻ hồn nhiên như ở tập đầu
của bộ trường thiên, nhưng ở đây
vẫn thấy sức sống của những cô gái đôi
mươi thể hiện qua lời nói, suy nghĩ, như
Hồng Ngọc trêu chọc bạn gái muốn về
sớm với chồng: "...Con quỉ cái nầy
chắc nó đang... nứng tới!" (XTTN).
Qua những mảnh t́nh,
những cái vui nơi ruộng, vườn, nay vẻ
lại, theo trí nhớ, Nguyễn Tấn Hưng như
muốn sống lại và luôn chung thủy với quá khứ,
quê hương, với con người Mỹ Tho, với
đời lính, đồng thời cũng chứng tỏ
ông có ḷng với văn chương. Ông trân trọng
tuổi trẻ, quăng đời cũ, những thứ
đă mất dù có thể đây đó nơi xứ
người hoặc qui hồi cố hương, vẫn
có thể t́m thấy, vẫn chỉ là những mảnh
vụn, dư vang!
Sau những quăng đời
lính huy hoàng dù đầy gian nan, hiểm nghèo,
được đậm nét ở những chuyến
hải tŕnh, ở một thuở làm "trùm", những
bến đợi, những neo bến, bộ Một
Giấc Mơ Tiên đây cái lơi là t́nh yêu, là cái sống
trẻ, sống hết ḿnh, dễ mến, trong cả
những bê bối, lang bạt!
Thường thường tác
giả bắt đầu truyện bằng những màn
tả cảnh, như đầu truyện Ḍng Sông Của
Tùng (Một Chuyến ra Khơi,
1990): "Vào mùa khô, cái nắng của những làng quê
miền Nam kéo dài dai dẳng. Trẻ con trần truồng
rong chơi. Bụi đóng lớp dầy trên phiến lá,
trên hàng rào... Con đường ṃn heo hút, mặt cát
đất gồ ghề trắng bệch, thỉnh
thoảng một chiếc xe ḅ chất đầy lúa,
một người đàn bà gánh hai bó rơm to hơn
người uể oải, lê thê. Quang cảnh đ́u hiu
vắng vẻ, không c̣n sức sống, không có dấu
hiệu hoạt động. Mảng đất giồng
bỏ lâu không xới, cỏ mọc xen lẫn rơm
rạ phủ lên mấy lớp..." . Truyện thêm
thắt thơ văn, ca dao, câu ḥ,... làm cho truyện trở
nên hấp dẫn, dễ theo dơi! ("Nhún ḿnh như thể
nhún đu" (CPQC, MGMT)); "Mặc dù tiết tháng bảy
năm nay chẳng có mưa dầm sùi sụt, cũng
chẳng có toát hơi may lạnh buốt xương khô
vốn rất thích hợp cho sự lang thang của
những hồn ma đói khát..." (DTĐTT, MGMT)),
Điểm đặc
biệt trong thơ văn Nguyễn Tấn Hưng là dù
thơ hay văn, đều là những mảnh, những
khía cạnh của một tâm hồn, đứng riêng
cũng đặng mà để chung cũng xong. Những
một-nửa, những tiểu-truyện, những giây phút
chạnh ḷng, những nhung nhớ bất chợt,...
Một Giấc Mơ Tiên gồm nhiều tập nhiều
chương, nhưng mỗi chương có thể
"sống" thoải mái ḿnh "yên". Tập thơ
và nhạc Một Thoáng Trong Mơ cũng trong chiều
hướng sáng tác:
"Có ai về Mỹ Tho
Nhớ theo sông Bảo Định
Thả trôi ra tận vàm
Tắm mát ḍng Tiền Giang
(...)
(Về Mỹ Tho).
Tính chất tự truyện bao trùm nhưng với Nguyễn
Tấn Hưng hầu như là chuyện thật không thêm
bớt, chuyện gốc nghèo, chuyện ông Trùm nhận
hối lộ,... chẳng hạn, nhờ vậy truyện
có ư tích cực, tố giác, vạch tội, dễ
được người đọc cảm t́nh hơn!
PHÙNG NHÂN
Từ tập truyện Vết
Thương Vẫn Mở (1992) đến các tiểu
thuyết Xóm Nhị T́ (1994), Vàm Đất Cả Cao
(1995), Phùng Nhân viết về con người và xă hội
ở miền đất Mỹ Tho, Bến Tre, ngày xưa và
hôm nay. Tác giả khởi viết tiểu thuyết khi
đă mất quê hương, nơi đó có những con
người và mảnh đất chứ không phải là
một tổ quốc trừu tượng! Với một
tâm t́nh thiết tha. Ông cho người đọc nh́n
thấy những tâm lư nhân vật đặc biệt
lục tỉnh, chân chất nhưng nhiệt thành, dứt
khoát khi cần. Những con người đă góp phần
làm nên lịch sử. Các nhân vật trong Vàm Đất
Cả Cao từ Bảy Ngân người đă có công khai
phá vùng đất Cả Cao sau theo kháng chiến cứu
nước, con là Huy bị chết v́ chế độ
mới phải "trừ gian", đến thằng
cháu Út Hậu, con Bông... đă sống chết với
những hệ lụy của đất nước.
Xóm Nhị T́ là bức tranh vân cẩu
của một xóm nghèo ở ngoại ô thị xă Mỹ Tho,
thời gian và chế độ thay đổi nhưng con
người lúc nào cũng sống với những bận
tâm thường ngày, những nhân t́nh thế thái. Tập Vết Thương Vẫn
Mở có những truyện thành công, có tính cách tiêu
biểu cây viết Phùng Nhân hơn. Chuyện độ gà mà
lại nhằm ngày mùng một Tết dưới chế
độ cộng sản là một thí dụ đáng
kể. "Nuôi được một con gà ṇi đă
khổ, nhưng đến lúc đá lại c̣n khổ
hơn. Cờ bạc th́ c̣n lén lút, chớ đá gà th́ như
dậy giặc. Thậm chí như mấy bà bầu coi gà
đá mà c̣n ngứa ngáy tay chưn! Miệng la chết
mầy chưa... chết chưa mậy!!! Hà huống ǵ
mấy người nóng tánh... (...) Con Ô Bông đưa mỏ
vào cánh mằn lông, thỉnh thoảng trụ bộ
bước đi vài bước rồi dừng lại.
Cặp cựa ánh lên sắc thép xanh rờn. Ông Hai Bắc
bồng lên phun nước sương vào hai bên nách. Con Ô
Bông trụ bộ, cho hai mũi cựa giao nhau. Thôi rồi,
đích thị là cặp song đao của Tiểu Long
Nữ và Dương
Quá!!! Trên chốn giang hồ nầy c̣n ai dám
đối đầu. (...) Khi tiếng chuông vừa
dứt, th́ ông búng nhẹ vào cọng lông thép của Ô Bông.
Tức thời, con Ô Bông lạng sâu thêm vài bước,
rồi bất ngờ cất cẳng đá tạt ngang,
một đ̣n rất độc. Nhưng con Chuối
Lửa tránh được, đồng thời hai con
xấn vào, như hai mănh hổ giành mồi. Con nào cũng
muốn đem hết đ̣n hiểm độc của ḿnh
ra để hạ đối phương, con Ô Bông bị
cựa đùi trước, yếm lông bắt đầu
máu nhuộm, bạc xuống sáu, rồi ăn năm. Ông Hai Bắc hét
lên: "Ô Bông; đ̣n 'tảo địa bàn môn' đâu mà con
chưa chịu hạ". Dứt lời ông, th́ con Ô Bông
ghịt cái lông dây của con Chuối Lửa đá một
đ̣n thẳng cẳng. Con Chuối Lửa bị đâm
phụt bộng chết tươi, gịng máu nóng trào ra hai khóe
miệng..." (tr. 8, 18-19). Công an du kích kêu loa cấm đá
gà, con Ô Bông phải đi đá nơi xa nhưng khi thắng
th́ bị du kích cộng sản đang làm khán giả lộ
bộ mặt thật nổ súng bắt cắp con gà vô
địch của Hai Bắc!
Nhân vật, đối
thoại đặc sắc của vùng đất, rất
lục tỉnh, phong phú, rất riêng! Những phương
ngữ, những điệu và nhạc trong lời nói.
Rồi những đặc sản địa phương
như cơm gạo nàng sen, rau đắng biển, rau
Bồ Ngót, những con cá tḥi ḷi, cá dược, cá sửu,
cá chẽm, cá bóng bèo, cá óng sao, những con rắn hù ri, v.v.
Nói chung, truyện của Phùng
Nhân đặc biệt b́nh dân, cuộc đời
người nghèo tri túc tiện túc, vẫn hạnh phúc, lúc
nào cũng lạc quan vui sống, cả trong khó khăn,
nhọc nhằn, bất hạnh, vẫn le lói tia sáng...
của t́nh người, của những hy vọng! Ông có óc
quan sát bén nhậy, dù cách diễn tả có khi hơi
nặng, bắt người đọc phải theo dơi.
Nói chung, tác phẩm cả năm
tác giả nói trên đều có tính chất tự truyện. Đây là một thể loại
văn chương có sáng tạo, có nỗ lực của
tác giả, dĩ nhiên khác với hồi kư vốn văn
chương chỉ là phụ! Kiệt Tấn, Nguyễn
Tấn Hưng, Xuân Vũ nhiều tính tự truyện
hơn Phùng Nhân và Hồ Trường An, hai tác giả sau
đă tiểu thuyết hóa mỗi người màu mè riêng!
Tự truyện ở đây là một nhu cầu tự
nhiên, một thiết yếu cho cuộc sống ở xa
quê-hương, đất nước!
Đặc tính thứ nh́
nữa, là cả năm từng sống nhiều nên dồi
dào chi tiết và nhân vật riêng của địa phương. Có lẽ v́ thế mà
cả năm có những tương đồng v́ cùng
ở một vùng Tiền giang nên cùng ngôn ngữ chăng!
Nam-tính ở văn phong du dương thơ nhạc và câu
hát cải lương mà c̣n thấy ở những cám
dỗ luân lư, xa gần như có những gương
phải theo, những phong tục phải ǵn giữ.
Những t́nh cảnh và răn đe thiện ác, những
nhân sinh quan, triết lư Á-đông! Xuân Vũ là một trong những
nhà văn viết nhiều với tâm huyết muốn
thuyết phục. Phùng Nhân nhiều địa phương
tính nhưng văn chương th́ phải ghi nhận
Kiệt Tấn, Nguyễn Tấn Hưng và Hồ
Trường An!
Nếu phải phân biệt so
sánh, ta có thể nói người đất Bắc giỏi
làm văn chương, thích làm "mới" h́nh thức,
khuynh hướng mới, làm văn học và nghiên cứu,
th́ người Nam sống văn chương, nếu có làm
văn chương th́ vẫn khác ở chỗ dài ḍng, chi
tiết, đối thoại, ở câu chuyện, v.v. . Dù ǵ
th́ nếu người đọc đă từng
bước dưới những con đường
ngợp bóng cây với người t́nh tươi mát, nhí
nhảnh, từng với nàng tung tăng ở những
vườn xoài, mận... ở Trung Lương,
từng thưởng thức ḿ vắt ở chợ
Mỹ, từng qua lại những phà Rạch Miễu,
đến Mỹ Tho, Kiến Hoà v́ t́nh hay v́ trốn cái nóng
và xô bồ của Sài-G̣n,... đều không khỏi bâng
khuâng khi đọc năm tác giả này!
Chú-thích
1-
Nguyễn Vy Khanh. Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX:
Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại (Glendale CA: Đại Nam, 2004), tr. 81; Chủ Đề (Portland OR), 2, Hè 2000, tr. 85.
2-
Nguyễn Vy Khanh. "Đọc Khói Sóng Trên Sông của
Nguyễn Văn Sâm". Văn CA, 42, 6-2000. tr. 84-91; Văn
Học Và Thời Gian (Westminster CA: Văn Nghệ, 2000),
tr. 317-328. Liên hệ đến Mỹ Tho gần đây có
Nguyên Nhi với Con Gái
Người Gác Đèn Biển (1999) và Quái Phong (2000) nhưng địa phương tính
đă phai nhạt ít nhiều!
3-
Lời Tựa, Tự Vị Thế Kỷ (Los
Alamitos CA: Xuân Thu, 1990), tr. V.
4-
Xuân Vũ. "Tựa". Đỏ Và Vàng (Los
Alamitos CA: Xuân Thu, 1990), tr. 10.
5-
Trích giới thiệu của Xuân Vũ ở đầu
tập 3. Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như Tôi
Biết (Los Alamitos
CA: Xuân Thu, 1998).
6-
"Thư Cho Lộc". Nghe
Mưa (Los Alamitos CA: Xuân Thu, 1989), tr. 243.
7-
Kiệt Tấn. Việt Nam Thương Khúc (Paris:
An Tiêm, 1999), tr. XIII.
8-
Sđd, tr. XIX.
Nguyễn Vy Khanh
8-8-2000