"CHÚ TƯ C U" LÊ XUYÊN

Nguyễn Thuỵ Long

 

http://www.talawas.org/talaDB/pics/vh070507_2.jpgSài G̣n 1999: Nguyễn Thuỵ Long- Nguyễn Mạnh Đan-Uyên Thao

Viết hồi kư, viết hoài về chuyện chết chóc, sự khốn khổ của kiếp người, chính người viết cũng thấy nản. Nhưng làm sao được, v́ chính những người nằm xuống đó là chỗ thân t́nh của tác giả, anh em, bạn bè, hoặc là người mà tác giả ngưỡng mộ, một nhà văn, một nhà báo, một thi sĩ nào đó. Tôi nghĩ cũng là chuyện thường thôi, không oán trời oán đất ǵ hết, hay đổ lỗi cho ai. Con người ta chẳng qua có một số mạng, trời cho sướng th́ được sướng, trời bắt khổ th́ phải khổ mà thôi. Như một lần nhà văn Lê Xuyên nói với tôi.

Đời sống tiêu cực chăng? Tôi không biết nữa. Nói chung đời sống chúng ta như bị cấy sinh tử phù, dở sống dở chết. Thôi cũng được. Người ta già mà chết, tai nạn mà chết, hoặc khổ quá mà chết th́ cũng là chết vậy. Tôi không muốn nói đến chuyện chết chóc nữa. Bây giờ già rồi, có th́ giờ th́ dạo chơi, đi thăm bạn bè mà không tốt sao, chúc cho nhau câu sống lâu trăm tuổi. C̣n khối người bạn vẫn sống đó, hoặc thành công, hoặc thất bại, hoặc ngất ngư, bị dính "sinh phù tử".

Những người bạn thành công trên đường đời, hăy khoan, tôi chưa đi thăm vội, tôi t́m thăm những người bạn ngất ngư trước đă.

H́nh như tôi cũng có nhiều th́ giờ, tôi thuộc về loại đàn ông bây giờ vô tích sự, ăn bám vợ con, tự nhiên thích rong chơi, thăm anh bạn này, anh bạn kia đau ốm, hoặc có chuyện khốn khổ chi đó.

Sau cơn băo, áp thấp nhiệt đới số 4 và số 5, trời lại đẹp. Buổi sáng ở thành phố Sài G̣n, không khí trở nên trong lành, se se lạnh nhự trời thu Hà Nội. Tôi, nhà báo hết thời, làm báo từ khi c̣n in báo từ máy typo bỗng thấy ngứa nghề, nhớ nhung vẩn vơ và thích chạy rong. Tôi có thể ngồi nhà, trên căn gác bút mà gặm nhấm kỷ niệm, dĩ văng coi như lùi vào quên lăng cho đỡ buồn. Mà sao cẳng tôi như cuồng lên, nhớ nhung ǵ đâu không. Muốn ngồi quán cà phê lúc trời tảng sáng, muốn ngửi mùi giấy thơm mực in của những tờ báo mới được nhả ra từ máy in, cái không khí âm âm của ṭa soạn, tiếng máy đánh chữ lách tách. Hoặc được phóng chạy như một phóng viên đi nhặt tin giờ chót, làm phóng sự: "Vẫn c̣n một cột tin giờ chót để cho anh đấy trước khi báo lên máy". Lời anh tổng thư kư ṭa soạn như c̣n vẳng bên tai tôi.

Đă gần ba chục năm nay mà sao tôi thấy gần gũi như mới nghe sáng nay. Ôi nhớ nhung vô vàn. Tôi yêu nghề, nâng niu nghề nghiệp của ḿnh đến trọn đời. Vậy sao nay tôi lại gác bút đến hai mưới mấy năm trời, như một số anh em khác. Do lư do tế nhị khó nói ra nên ai hiểu sao cũng được. Nhưng những dự định viết cái ǵ đó trong đầu người cầm bút vẫn c̣n đó, măi măi như một nỗi bất hạnh dai dẳng... Tôi đă thấy điều đó từ nhiều năm qua.

Sau cơn áp thấp nhiệt đới trời đẹp, tôi lại ngứa nghề, muốn lên đường để nh́n ngó lung tung, muốn đi trở lại những con đường mà trước đây tôi từng in dấu chân thuở viết văn làm báo, thăm lại một số bạn bè xưa.

Thế là tôi rời căn gác bút, ra đường trên chiếc xe đạp cũ rích, cà là tàng đi trên các nẻo đường, từng quen thuộc mà nay hơi xa lạ đấy. Thành phố thanh b́nh như khi tôi c̣n hành nghề phóng viên, bên ngoài thành phố khi đó vẫn ́ ầm tiếng súng, chiến tranh khắp mọi nơi, thành phố khi ấy chỉ là phồn vinh giả tạo.

Hôm nay thành phố vẫn đẹp, vẫn văn minh mà dân quê vẫn hứng chịu mọi bất công, thối nát, đói nghèo. Nạn nhân chính của thiên tai lũ lụt trên đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung đất cày lên sỏi đá. Thành phố chỉ có một bộ mặt thanh b́nh, văn minh, nhưng mặt trái của nó th́ khác. Xe hơi, xe gắn máy đời mới chạy nườm nượp trên đường. Tôi chóng mặt, nhảy xuống khỏi xe đạp dẫn bộ, nhưng mà sao cứ vẫn chệnh choạng. Tiếng xe hới thắng kít sau lưng tôi, tôi nh́n, một thanh niên trẻ lái ô tô con tḥ cổ ra cửa, ngoạc mồm chửi:

 “Địt mẹ thằng già, chán sống rồi hả?”

Tôi nghệt mặt ra, anh ta chỉ đáng tuổi con tôi mà phát ngôn được một câu độc chiêu như vậy. Tôi ngỡ ngàng đến không kịp phản ứng, chiếc xe hơi bóng loáng phóng vút đi bỏ lại một nạm khói xộc thẳng vào mũi tôi, chạy xuyên qua suốt lên óc. Có lẽ cậu bé thuộc loại con ông cháu cha, hoặc giả là ông bé mà làm lớn, loại này ở đây th́ nhiều lắm. Tôi, dân đen, thấp cỗ bé miệng chịu đựng xử sự của những người thuộc loại đó nhiều năm và quen rồi.

Tôi nở nụ cười ngu ngơ đứng xem một đoàn du khách nước ngoài “tham quan" Sài G̣n 300 năm, thành phố Hồ Chí Minh. Ở những con đường chính, tôi đă "tham quan" coi như hết rồi. Tôi đă đi qua nhiều, xưa kia là ṭa báo tôi đă làm việc. Bây giờ th́ tôi đi thăm ai đây?

Tôi dừng lại ở đầu đường Gia Long (nay là Lư Tự Trọng) và đường Nguyễn Trung Trực. Tại nơi này nh́n qua Thư viện Quốc gia, Đại học Văn khoa hồi xưa, có một kiosque bán cà phê, nh́n sang bên kia đường là ṭa báo Đại Dân Tộc, phía góc đường Thủ Khoa Huân, Gia Long là báo Sống. Nói tóm lại có rất nhiều ṭa báo trên quăng đường ấy. Kư giả, phóng viên, nhà văn sáng sáng ngồi đầy các quán cà phê lề đường, tất cả đều quen nhau, thân thiết đến độ xộc thẳng vào đời tư của nhau, nên t́nh nghĩa bạn bè cũng rộn ră. Sau năm 1975, ngày "đứt phim", báo chí thuộc chế độ cũ dẹp tiệm, kư giả nhà văn có người đi mất, người c̣n sót lại lêu bêu. Tôi ở trong số đó. Buồn quá đi thôi, bỗng dưng tôi phải buông bút (mới chỉ buông chứ chưa gác), vẫn c̣n nghĩ ḿnh dùng được ng̣i bút để phục vụ độc giả. Sau vài lần "vỡ mặt" mới sáng mắt ra.

Nơi tôi đứng là một lề đường rộng, cái kiosque sơn màu xám xỉn cũ kỹ nay đă biến mất. Nơi đó tôi từng ngồi, thân thiết chủ quán đến độ có thể ghi sổ nợ từng ly cà phê, điếu thuốc thơm trợ hứng cho lúc viết bài hay trang feuilleton đăng trên nhật báo. Chẳng phải riêng ḿnh tôi mà nhiều anh em đồng nghiệp cũng thế. Sau ngày đứt phim tôi c̣n thấy lai rai vài người. Họ vớt vát cái ǵ, hay chờ đợi như ngày anh em tụ lại với nhau khi báo được lệnh đóng cửa.

H́nh ảnh nhà văn Lê Xuyên, anh em quen đùa gọi là chú Tư Cầu, tên tác phẩm nổi tiếng của anh viết về đồng quê Nam Bộ, dĩ nhiên là có những mối t́nh quê mùa mà không kém đam mê, tiêu biểu là nhân vật chú Tư Cầu Trước ngày miền Nam bại trận, Lê Xuyên là tổng thư kư báo Sài G̣n Mai rồi Đại Dân Tộc, anh có cái nhạy cảm của người làm báo cùng với sự sâu sắc của người viết văn. Anh đă có cả lô tiểu thuyết ấn hành, tôi không nhớ hết. Nhà văn Lê Xuyên hay nhà báo Lê Xuyên cũng được. Nhưng anh em gọi anh là chú Tư Cầu cho thêm phần thân mật. Nhưng h́nh ảnh của nhà văn Lê Xuyên gây ấn tượng nhất cho tôi là sau ngày chế độ Sài G̣n bại trận, tôi vẫn c̣n thấy anh ngồi ở quán cà phê đó vào những buổi sáng kế tiếp. Mắt nh́n lên ṭa soạn xưa buồn rười rượi, y nguyên như ngồi uống cà phê chờ anh chef typo xuốn báo cáo đă đủ khuôn, xin lệnh chạy máy, hay cần lấp một lỗ hổng. Bây giờ không c̣n ǵ nữa, không vắng lặng mà có cái xôn xao của cờ quạt, biểu ngữ khẩu hiệu và các trẻ thơ nối ṿng tay lớn nhảy múa như cuồng ở góc đường, góc công viên.

Lê Xuyên vẫn cái áo sơ mi bỏ ngoài quần tây, cái mũ phở giản dị, đôi dép. Tôi chưa bao giờ thấy ở anh một sự "se sua" thời trang nào. Con người anh rất giản dị, cái giản dị của người miệt quê Nam bộ, nên gọi anh là chú Tư Cầu cũng rất đúng, không từ nào chính xác bằng. Tôi đă ngồi đó nới chuyện với Lê Xuyên, tôi không nhớ ḿnh nói ǵ. Sau đó các văn nghệ sĩ, nhà văn nhà báo chúng tôi hầu hết bị vồ đi học tập cải tạo, Lê Xuyên đương nhiên có mặt trong đám "học viên" đó. Anh về sớm, tôi lại gặp anh trên những nẻo đường đi bán bánh tiêu bánh ḅ, rồi anh mở quán bán thuốc lá lẻ ở đường Ngô Quyền, Chợ Lớn gần nhà anh. Tôi ngồi sửa xe đạp ở góc đường Nguyễn Kim gần đó, nên thỉnh thoảng tạt qua gặp nhau.

Đă lâu rồi, đến hai ba năm tôi không có ghé qua anh. Sáng nay tại sao tôi không ghé, lần sau cùng gặp anh coi bộ anh yếu lắm. Khi đó anh nói với tôi anh tṛn 70 tuổi. Đường về Chợ Lớn đối với tôi bây giờ xa vời vợi, nhưng phải đi chứ. Thăm một người bạn sau nhiều năm giam ḿnh ở ấp Đông Ba cũng là một điều hay.

Kia ḱa, chú Tư Cầu c̣n đó, sau cái quầy bán thuốc lá cũ rích, con người anh cũng cũ rích, gầy guộc và đầy chất Nam bộ chân chất. Cái mũ bánh tiêu rúm ró chụp trên đầu, cái sơ mi mỏng lét, ṃn cả vai, cái quần tây màu nâu ống cao ống thấp, đôi dép không rơ bằng vật liệu ǵ nữa. Mặt anh gầy rộc, xanh mét. Tôi gọi anh:

 “Chú Tư Cầu!”

Anh nh́n tôi một giây xong mới hỏi:

 “Có phải Trâu Nước không?”

 “Chính tớ, mà sao ông gầy thế, có khỏe không?”

 “Ông cũng chẳng hơn ǵ tôi, tôi suy yếu toàn diện rồi, 72 tuổi, hai mươi năm ngồi bán thuốc lá lẻ ở lề đường, trên góc đường này c̣n ǵ. Cám ơn, ông ṃ đến tôi mới nhớ ḿnh là Lê Xuyên, chú Tư Cầu...”

Niềm hănh diện c̣n lại của một người cầm bút. Niềm xót xa của một nhà văn đă từng có một thời vang bóng. Nay anh ngồi đây trong sự lăng quên, hai mươi năm ngồi ở một góc đường. Trước mặt, bên kia đường có cái đ́nh tên Vĩnh Viễn, bên cạnh đ́nh có một căn nhà có bản đề "BCH phường đội 8".

Tôi nói với anh, tôi mới đi thăm thành phố Sài G̣n về, tức là thuộc khu vực Quận 1, Quận 3. Anh nói:

 “Tớ 15 năm nay không lên đến thành phố Sài G̣n, chẳng biết bây giờ nó ra sao nữa?”

“To cao lắm, đúng là chốn phồn hoa đô hội, cũng đă lâu lắm tớ không tới đó, giống như gă nhà quê ra tỉnh...”

 “Chúng ta giống nhau.”

Nh́n cái quầy thuốc lá cũ rích, long đinh, tróc sơn thấp lè tè của Lê Xuyên, tôi lại lo lắng cho anh trong trận mưa chiều ngày 9 tháng 11 vừa qua nhiều con đường ngập lụt, hàng hóa chợ B́nh Tây bị nước úng hư hỏng thiệt hại bạc tỉ. Lê Xuyên cũng chỉ cười.

Anh cố ép tôi hút một điếu thuốc Con Mèo. Trong câu chuyện của anh, tôi rút ra được có một câu: "Tớ suy sụp toàn diện rồi". Tôi cũng được biết hoàn cảnh gia đ́nh anh, bà vợ bị mắc bệnh hiểm nghèo từ mấy năm nay, một đứa con gái của anh đă chết v́ ung thư bỏ lại hai đứa con và cái quầy thuốc lá này cho anh, anh là ông ngoại của chúng. Tôi hỏi về sự học hành của hai đứa cháu mồ côi, anh có vẻ ngạc nhiên. Qua câu nói của anh, tôi biết anh không đủ sức nuôi hai cháu ăn học. Một quầy bán thuốc lá lẻ như vầy ở đường kiếm chác được bao nhiêu, nuôi bao nhiêu miệng ăn, đă thế lại phải lo thuốc thang cho người bệnh. Tôi cũng đang mệt nhọc v́ c̣n ba đứa con đi học nên rất đồng cảm với anh.

Xoay sang chuyện văn học nghệ thuật, Lê Xuyên than phiền với tôi rằng anh mới đọc một bài báo nói về các tác giả làm văn học Việt Nam từ năm chục năm trở lại đây, những nhà văn nhà thơ ở miền Nam đă từng cầm bút và có danh không được nhắc đến một ai, nghĩa là bị gạt ra ngoài lề. Tôi nói tôi có biết quyển từ điển văn học ấy.

Báo Kiến thức Ngày nay số 297 trang 186, mục "Ai sao?" có một độc giả tên Lê Minh (Khánh Ḥa) hỏi: V́ sao các nhà văn Vơ Hồng, Sơn Nam, Nguyễn Văn Xuân, Kiên Giang, B́nh Nguyên Lộc không có tên trong Từ điển văn học do nhà xuất bản Khoa học Xă hội in năm 1983-84? Người ṭa soạn có tên là Phan Hoàng trả lời: Chúng tôi thiết nghĩ ông nên gởi thẳng câu hỏi này về Ban biên tập Từ điển văn học và NXB KHXH. Tin rằng ông sẽ nhận được hồi âm cho thắc mắc mà dường như tất cả những người yêu thích văn chương đều quan tâm. Chúng tôi chỉ xin lưu ư, bên cạnh những nhà văn trên đây, c̣n rất nhiều tên tuổi văn học đáng kính khác cũng không hề được nhắc đến, dù chỉ cái tên, trong bộ từ điển tầm cỡ quốc gia này. Chẳng hạn như các bậc tiền bối thời tiền chiến: Hoàng Đạo, Đinh Hùng, Nguyễn Vỹ, Phạm Hầu, Đoàn Phú Tứ, Bàng Bá Lân... cho đến những nhà văn nhà thơ góp phần đáng kể vào diện mạo văn học Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vừa qua: Lư Văn Sâm, Dương Tử Giang, Vũ Anh Khanh, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Quang Dũng...

Những nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ tầm cỡ như thế c̣n chưa được ngồi sau porte bagage đèo xe đạp vào văn học sử nữa là... Đừng nói là người ta thiếu sót trong việc biên soạn, v́ ban biên tập toàn là người có đầu óc, có văn hóa được đào luyện. Sỏi đá xôn xao. Chúng tôi cười x̣a, cũng xong cả thôi. Quan tâm làm đếch ǵ đến chuyện đó.

Bạn bè lâu ngày gặp nhau không cà kê dê ngỗng, th́ cũng dây cà ra dây muốn. Tôi hỏi anh về việc cư trú, anh nói anh chưa có hộ khẩu, đương nhiên không thể có chứng minh nhân dân, chẳng có giấy tờ mẹ ǵ cho biết anh là một con người sống trong chế độ.

"Ông có xin nhập hộ khẩu sau khi đi học tập cải tạo về không?"

"Có chứ sao không, xin nhiều lần rồi mà người ta không cho, đôi khi c̣n bị mắng mỏ khi xin giấy tờ, nên đành ́ ra, bị phạt th́ chịu thôi, chán rồi người ta cũng nản."

Đến lúc ấy tôi mới thấy Lê Xuyên x́ ra chuyện sống chết.

"Tớ cũng nghĩ về những trường hợp của những người chết chui."

Tôi ở dưới chế độ này lâu lắm nên hiểu rất rơ từ "chui" là ǵ, từ này được nhập cảng vào miền Nam sau năm 1975. Chui có nghĩa là lậu, buôn chui, bán chui, phở chui. Những thứ không được công nhận. Chết chui th́ thảm lắm, thảm c̣n hơn phở chui lèo tèo mấy miếng, nước lèo th́ nhạt thếch nhạt thác đựng trong b́nh thủy, bát phở không hành ng̣. Nói theo kiểu thời thượng là "phở không người lái".

Thi sĩ Bùi Giáng chết, cũng ở dạng chết chui, nhưng v́ ăn ở có đức nên được chôn cất đàng hoàng, lại được người đời vớt cho một câu: "Chúng tôi đă bỏ quên anh." Dù rằng với cách sống của ông th́ ông cóc cần. Khoác thêm cho cái xác lạnh tanh ấy một sơ mi gỗ hay đội lên đầu thêm ṿng nguyệt quế nữa th́ nhằm nḥ ǵ.

Thuở c̣n ăn mắm mút ḍi, gạo châu củi quế, người dân khoái xài đồ chui hơn là đồ quốc doanh. V́, muốn ăn một bát phở quốc doanh phải xếp hàng cả buổi, nhân viên phụ trách khâu bưng phở mặt vác lên như ba cái thớt chồng lên nhau, dằn tô phở trước người mua phiếu như ra ơn ban phát, bố thí. Phở đồng loạt là phở chín, khách hàng không nên đ̣i chín nạm gầu hoặc xin thêm nước béo hành trần lôi thôi, chẳng ngon lành ǵ hơn phở chui.

Người ta thèm nụ cười cầu tài của anh bán phở chui, lấy chuyện đó làm hài ḷng nên cũng ấm cái bụng. Chứ không treo bảng "khách hàng là thượng đế" như bây giờ.

Nh́n sang bên kia đường tôi thấy một sạp báo. Báo chí đủ các thể loại phục vụ độc giả, sắc màu rực rỡ, hấp dẫn, in ấn đẹp bằng mười ngày xưa, hơn thuở tôi c̣n xách bút chạy rong nhiều. Sự tiến bộ trong ngành báo chí trông thấy ngay trước mắt. Tôi nói với Lê Xuyên:

"Có một dạo tôi tính mở một sạp báo bán cho đỡ buồn, nhưng rồi lại thôi, dù có mượn được vốn."

"Tại sao vậy?”

Tôi lắc đầu:

 “Sau những ngày thực tập nghề bán báo, tôi bỗng cảm thấy buồn, v́ ngày nào cũng đụng đến báo chí tự nhiên ḿnh thấy nhớ nhung ǵ đâu không, cái dĩ văng làm báo tội nghiệp của tôi ám ảnh tôi quá nhiều.”

Lê Xuyên vốn là tổng thơ kư của nhiều nhật báo gật gật đầu:

 “Ờ ông nói có lư đấy, chúng ta không thể hành nghề bán báo được, sẽ buồn lắm, không như nghề bán thuốc lá lẻ của tôi.”

Có người khách ghé mua một gói thuốc lào. Bây giờ tôi mới biết anh c̣n bán cả thuốc lào đượm khói dân tộc nữa, nhặt nhạnh từng cắc một, quả là con người lương thiện từ đầu đến chân.

Chia tay chú Tư Cầu v́ trời đă muộn. Gặp anh tôi không thể không nhớ đến nhan đề một truyện dài của anh là Gió đưa trăng. Sau này tôi biết anh lấy từ câu ḥ trữ t́nh trên sông nước Cửu Long. Câu ḥ như thế này: Gió đưa trăng, trăng đưa gió, [con] trăng lặn rồi gió biết đưa ai?...

Tôi như nghe thấy tiếng ca trữ t́nh vút lên thinh không, man mác trên sông nước Cửu Long, đồng bằng lúa gạo Nam bộ. Tính chất Nam bộ trải dài trong tác phẩm của anh và ở ngay chính con người anh. Trăng lặn rồi gió biết đưa ai? Có phải một câu than thở không? Tôi lẩn thẩn măi với câu hỏi ấy trong đầu. Tôi nghĩ đến hát ru Nam bộ mà Lê Xuyên đặt tên cho tác phẩm của ḿnh, có một câu bỏ lửng.

Tôi về đến nhà ở Ấp Đông Ba xưa vào buổi trưa, mở truyền h́nh lên coi. Tôi nhận được tin cơn băo số 6 đang trên đường đổ vào bờ biển Việt Nam. Sao mà khổ thế nhỉ, bao nhiêu là tai ương. Người ta kêu gọi nhân dân chống băo lụt.

Tôi nghĩ hoài về nhà văn Lê Xuyên. Mưa ập xuống ngập đường như sông. Trên con đường Lê Xuyên ngồi bán thuốc lá lẻ nước ngập đến bụng, liệu Lê Xuyên có khiêng nổi xe thuốc đội lên vai lên đầu để tránh ướt không, bảo vệ cái vốn liếng nhỏ bé, duy nhất của gia đ́nh anh trên đôi vai c̣m cơi.

Tôi lo lắng, thương xót bạn, thầm cầu xin sự an lành đến với anh. Năm hết Tết đến rồi. Anh từng nói từ lâu rồi anh không có mùa xuân.

 

Nguồn: Chương VII: “Chú Tư Cầu” Lê Xuyên, trích Giữa đêm trường, hồi kư của Nguyễn Thuỵ Long (trang 101-114), nxb Tiếng Quê Hương, Virginia 2000, USA, do Uyên Thao chủ trương với sự cộng tác của nhiều văn hữu. Địa chỉ liên lạc: P.O. Box 230113, Centreville - VA 20120. Email: uyenthao@juno.com. Bản điện tử do Nguyễn Đăng Thường thực hiện.