Ðại nam
Quốc âm Tự vị 1895 - Paulus Huỳnh Tịnh Của
Nguyễn Khắc Xuyên
Lời giới thiệu
Đại
Nam Quấc Âm Tự Vị là quyển từ điển
Việt đầu tiên và do một người Việt
đầu tiên soạn, ấn hành năm 1895 và 1896, cách chúng
ta ngày nay 100 năm, 1895-1995. Trước đây, có mấy
người viết từ điển: Việt Bồ La
của Đắc Lộ 1651, Việt La của Taberd
1838, Việt Pháp của Legrand de la Liraye, 1868, Việt
La của Theurel-Taberd 1877, La Việt của Ravier
1880, Pháp Việt của Trương Vĩnh Ký 1887, Việt
Pháp của Génibrel 1893. Từ điển của Huình
Tịnh Của là từ điển VN, từ
điển tiếng Việt đầu tiên do
người Việt Nam soạn.
Để
giới thiệu bộ sách đồ sộ hai tập,
mỗi tập trên dưới 600 trang, chúng tôi không xét
về phương diện từ ngữ học, từ
điển học mà chỉ nói về ít kiến thức
phổ thông rút ra từ cuốn sách này, nhất là bàn
giải về các thành ngữ, từ ngữ tác giả
đã trích dẫn trong cuốn sách.
Tự
vị được hoàn chỉnh sau hơn bốn năm
kiên trì làm việc, theo lời tác giả nói. Ban đầu,
ông muốn cho ra mắt cuốn sách thành tự vị
Việt Pháp. Vì thế, sau khi viết xong phần tiếng
Việt, thì dự định cộng tác với mấy
người Pháp để viết phần tiếng Pháp.
Thế nhưng công việc sẽ rất khó khăn và đòi
hỏi một thời gian lâu hơn 4 năm soạn
tiếng Việt. Thế rồi người ta bỏ ý
định ban đầu mà nhận phần tiếng
Việt để thành Tự vị hay là từ
điển tiếng Việt mà thôi. Đây là một
kết quả rất vẻ vang, một danh dự lớn
lao đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong
việc sử dụng chữ quốc ngữ trong văn
học, tư tưởng và văn hóa VN. Tờ báo Việt ngữ
đầu tiên, tờ Gia Định báo
được phát hành năm1865. Ba chục năm sau, tác
phẩm của Huình Tịnh Của ra chào đời,
mở đường cho những từ điển,
tự vị tiếng Việt về sau.
KHOA HỌC THƯỜNG THỨC
Tự
vị, từ điển là sách ghi từ ngữ, tiếng
nói của một thời đại. Nó phản ảnh
kiến thức của một thời đại.
Đối với những nước có một nền
văn học thịnh vượng, một tổ ấn
loát phong phú, những tự vị cũ không sử dụng
như những tự vị vào thế kỷ trước
chúng ta. Bởi vì sách viết của chúng ta không có nhiều,
tự vị của chúng ta như kim chỉ nam ngọc
âm giải nghĩa, Từ điển Việt Bồ La
thế kỷ 17 đã trở thành những sách thuộc
lịch sử mở cho chúng ta biết về thời
đại của chúng, về sinh hoạt văn hóa, văn
học, xã hội một thời đại. Hơn
nữa, những tác phẩm đó có khuynh hướng bách
khoa, nghĩa là bàn giải rộng rãi về một phong
tục, về một tập quán, một tín ngưỡng,
một ‘‘mê tín dị đoan’’, cho nên chúng cho độc
giả thời nay hiểu thêm về quá khứ của mình.
Riêng Đại Nam Quấc Âm Tự Vị thì
được soạn theo tiếng nói miền cực Nam
nước Việt Nam, một mảnh đất
nước còn khá mới, cho nên nó có một hương
vị riêng gây thành thích thú riêng. Sau đây là mấy
đề mục.
1. VỀ ÐỊA LÍ
Tứ kì. Theo Huỳnh Tịnh Của,
nước VN thời đó hoặc trước đó, chia
thành bốn kì, chứ không phải ba kì như trong thời
Pháp thuộc và chữ kì ở đây đã có từ
thời các vua nhà Nguyễn như Minh Mỵnh, Thiệu Trị.
Tứ kì đó gồm :
-
Tả kì kể từ Quảng Nam tới Bình Thuận,
Hữu kì từ Quảng Trị ra tới Thanh Hóa, Nam kì
gồm có 6 tỉnh miền cực nam và Bắc kì là
thập nhị thừa tuyên hay 12 tỉnh phía bắc. Riêng
về Quảng Đức, năm 1822, tỉnh này
được đổi thành phủ Thừa Thiên. 29
tỉnh được phân phối như sau :
-
Nam kì : Hà Tiên, An Giang, Vĩnh Long, Định Tường,
Gia Định, Biên Hòa.
-
Tả kì : Bình Thuận, Khánh Hòa, Phú An (Phú Yên), Bình
Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam.
-
Hữu kì : Quảng Đức, Quảng Trị, Quàng Bình,
Nghệ An, Thanh Hóa.
-
Bắc kì : Ninh Bình, Hà Nội, Nam Định, Hưng
Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Bắc Ninh, Sơn Tây,
Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng.
Đông Kinh.
Về
Kẻ Chợ Thăng Long, tác giả cắt nghĩa là ‘‘Kinh
thành bên đông, chính là kinh đô nhà Mẹc tại Hải Dương,
người Tây lại hiểu cả đất Bắc kì
’. Chúng tôi băn khoăn về điểm này, bởi vì Toàn
thư cho biết : năm 1430, đổi Đông
đô thành Đông kinh, Tây đô làm Tây kinh. Tây đô là kinh
thành dưới thời nhà Hồ ở Thanh Hóa, còn Thăng
Long thì được gọi là Đông Đô. Cho nên
việc gọi Thăng Long Kẻ Chợ là Đông kinh
ở thời nhà Lê, năm 1430. Huỳnh Tịnh Của có
thể nhầm lẫn hoặc hiểu theo câu nói thông
dụng : vua ở đâu thì triều đình ở
đó. Theo Đại Việt thông sử của Lê
Qúi Đôn, thì vào năm 1527 Mạc Đăng Dung
cướp ngôi nhà Lê, là Hải Dương làm Dương
kinh, lập cung điện ở Cổ trai, truy tôn ông
tổ 7 đờilà Mạc Đĩnh Chi... Cổ trai là
quê Mạc Đăng Dung. Chúng tôi chỉ thấy có vậy.
Dẫu sao chúng tôi nêu lên vấn đề ở đây
để tiện bề tham khao về sau.
Đàng Ngoài Đàng Trong.
Tự
vị cho hay : Đàng trong gồm các tỉnh ở theo
đàng đi vào phía Nam cho tới Gia Định,
đối với Đàng Ngoài là các tỉnh theo đàng
đi ra phía bắc nước Annam. Câu định nghĩa
còn trống, chưa đích đáng như những
định nghĩa ở thế ký 17, lúc xảy ra cuộc
phân tranh Trịnh Nguyễn, lấy ranh giới sông Gianh là
cõi bờ Bắc Nam. Nhưng
điều thích thú ở câu định nghĩa là chữ theo
đàng đi từ ngoài vào trong, từ Bắc vào Nam.
Mấy địa danh.
1.
Hoài phố: tên chỗ ở tại Quảng Nam, nguyên
là chỗ người Nhật lập bản thuở
trước gọi là phái phố, sau này người
Pháp gọi là Faĩfo. Điều hữu ích đó là
việc nhận định có người Nhật tới
buôn bán nhiều ở đây, tức cửa Hội An.
2.
Trấn Tây thành là thành xây trong nước Cao Mên,
để mà cai trị nước ấy, đời Minh
Mạng. Như vậy Trấn Tây thành là thành Nam Vang, nơi
nhà Nguyễn đặt cơ sở để bang giao và
trấn giữ.
3.
Cửa Thuận được cắt nghĩa khá
thích thú, bởi vì trước đây gọi là cửa Eo,
nhưng vì không muốn cho nó ‘‘teo’’ lại cho nên đặt
ra cái tên mới là cửa Thuận. Chính là cửa kinh đô
nước Đại Nam.
4.
Lũy Trày lấy từ tên một dân tộc ít
người ở phía trên tỉnh Khánh Hòa gọi là người
Trày, có nước da ngăm đen.
5.
Cầu Kho, thuộc hạt Bình Dương, ngày xưa
được gọi là Kho cẩm thảo
Điền địa. Về điền địa, chúng tôi
thấy nói tới các thứ thuế thời đó gồm
có : thuế đinh, hay thuế nhơn (thuế
người), thuế thân, thuế đầu người,
rồi thuế điền, ruộng, điền trang
(cùng thập vật tức tiền bao đệm phải
phụ thêm), thuế đất, tức thuế thổ
trạch, vu đậu cùng các thứ trái, thuế sai
dư là thuế lẻ loi, thuế tiền phụ
ngoại. Tóm lại có 4 thứ thuế chính. Cũng có hai
cách nộp thuế, thuế chán sắc, thuế món gì
thì phải nộp món ấy, Thuế chiết sắc
thuế cho dùng tiền hay tính ra tiền mà nạp, như
thuế lúa cho tính tiền...
Riêng
về thứ ruộng gọi là công điền thì
được giải nghĩa như thế này. Phép
đời xưa lấy chữ tính (là giềng) chia ra 9
phần, 8 người đều làm riêng, còn phần
thứ chính (ở chính giữa) thì làm chung cho vui gọi là
công điền.
Chụt Nha Trang. Ngày nay không biết người ta còn
dùng chữ chụt để chỉ vũng nhỏ
ở dựa ngành có thể cho ghe thuyền núp gió ; chụt
Nha Trang, chỗ núp gió ở tại Nha Trang về tỉnh
Khánh Hòa.
2. VỀ LỊCH SỬ
Mở
đầu QÂTV, có mấy trang nói về các dòng vua Trung
Quốc (tr. IX-XI), và mấy trang kể các dòng vua Annam (tr.
XII-XIV). Về lịch sử Trung quốc, tác giả
kết thúc như sau : ‘‘Kể từ vua Nghiêu, năm
giáp thìn, cho đến đời Minh hiệu Trung liệt
năm giáp thân, cộng là 3.981 năm’’. Còn về lịch
sử VN thì được ghi : ‘‘Kể từ khai quốc
cho đến hiệu Đồng Khánh có hơn 4600
năm’’. Thực ra theo, tác giả thì đời Nghiêu ở
vào trước công nguyên 2337 năm, còn đời Hồng
Bàng thì được 2622 năm. Như vậy ông tính
từ Trung Hoa khai quốc mà chỉ tính từ đời
vua Nghiêu.
Các bộ lạc Văn Lang. Bộ lạc được
định nghĩa là đoàn lũ, xứ sở, chỗ
tụ hội, Rồi tác giả viết thêm về các
bộ lạc nước Annam như sau : ‘‘Đời
Hùng Vương, gọi nước Annam là nước
Văn Lang phân làm 15 bộ là Giao chỉ, Châu Diêng, Võ Ninh,
Phước Lộc, Việt Thường, Ninh Hải,
Dương Tuyền, Lục Hải, Võ Định, Hoài
Hoan, Cửu Chân, Binh Văn, Cửu Đức, Tân Hưng’’.
Nói là 15 nhưng thực ra chỉ thấy 14. Lĩnh Nam Chích
Quái ghi đủ 15. Dư Địa Chí của Nguyễn
Trãi cũng chỉ ghi 14. Huình Tịnh Của theo Dư
Địa Chí cho nên cũng chỉ viết có 14. Có lẽ
Nguyễn Trãi đã không ghi bộ Văn Lang. Vì tên
nước là Văn Lang. (coi Nguyễn Trãi toàn tập, KH
XH, Hà Nội, 1976 tr. 544,chú 3,1). Trái lại Việt Sử
Lược viết vào đời Trần Đế
Nghiện (1377-1388) chép là 15 bộ lạc, trong đó có
Văn Lang.
Quốc hiệu. Ở chữ Việt, tác giả
viết: ‘‘Việt Thường là danh hiệu
cũ nước Annam, Âu Việt, Bá Việt cùng
nghĩa. Còn Nam Việt là danh hiệu nước Annam
bây giờ’’. Thực ra
tác giả còn ghi Đại Việt, Hoàng
Việt cùng nghĩa với Nam Việt. Nếu ghi cho rành, thi viết : Nam
Việt là danh hiệu Gia Long muốn đặt cho
nước ta sau khi đã thống nhất sơn hà,
nhưng nhà Thanh không chịu vì cho Nam Việt trùng tên với
Nam Việt thời Triệu Đà, do đó đổi là Việt
Nam. Nhưng vào thời Minh Mệnh đã đổi là
Đại Nam, cho nên chúng ta có một số tác phẩm mang
danh hiệu đó như : Đại Nam Dư Địa
Chí Biên, Đại Nam Liệt Truyện, Đại Nam
Nhất Thống Chí, Đại Nam Quốc Sử Diễn
Ca, Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng
Tập Lục, Đại Nam Thực Lục và dĩ nhiên
có Đại Nam Quôc Âm Tự Vị. Tự vị của
Taberd thì lại là Nam Việt Dương Hiệp Tự
Vị (1838).
Danh sách các Vương triều
Nguyễn
Ở
chữ Vương, có ghi ‘‘các đời
vương nhà Nguyễn. Từ Gia Long mới thiệt là vua,
còn từ đó sắp về trước đều
gọi là chúa’’.
Tự
vị chỉ ghi tên các vương nhưng không ghi họ.
Chúng tôi viết ra đây các tên họ đó, để
tiện bề tìm hiểu và cho đầy đủ :
-
Tiên vương 1570 - 1614 Nguyễn Hoàng, thường
gọi là chúa ông.
- Sãi vương 1614 - 1635 Nguyễn
phúc Nguyên
- Thượng vương 1635 - 1649 Nguyễn phúc Lan
- Hiền vương
1649 - 1668 Nguyễn
phúc Tần
- Ngãi vương 1668 - 1692
Nguyễn phúc Trăn
- Minh vương 1692 - 1724
Nguyễn
phúc Chu
- Ninh vương 1724 - 1737
Nguyễn
phúc Chú
- Võ vương 1737 - 1765
Nguyễn
phúc Khoát
- Hiếu vương 1765 - 1777 Nguyễn
phúc Thuần
- Gia Long, thống nhất từ 1779 - 1820
Thực
ra Hiền Vương cầm quyền từ 1649 tới
1687 và Ngãi vương từ 1687 tới 1692.
Giặc. Tự vị cho biết có mấy
thứ giặc.
1)
Thứ nhất giặc mùa: giặc đánh theo mùa lúa
chin. Thuở trước, người Cao Mên thường
ken binh làm giặc mà giành lúa của người Annam.
2)
Thứ hai là giặc Bắc khẩu, thứ giặc
ở phía bắc, tới đâu hay cướp phá, làm cho
thiên hạ rúng động. Cho nên mới có câu: làm như
giặc Bắc khẩu, chỉ sự cướp
giựt làm cho tan hoang. Chúng ta có thể nói là giặc Tàu,
Giặc Ngô chăng.
-
Tự vị còn coi hai tướng lãnh chống đối
nhà Nguyễn là giặc.
1)
Một là Lê Văn Khôi, gọi là giặc Ngụy Khôi,
người đánh trả thù cho quan thày là tả quân Lê
Văn Duyệt, năm Qúi Tị 1833.
2)
Hai là nhà Tây Sơn chống vua Gia Long gọi là giặc Tây
Sơn, ba người ở núi đánh với nhà Lê, nhà
Nguyễn năm 1796. Chúng tôi không nói gì thêm về phán đoán
sai lạc này bởi vì tác giả viết theo sử nhà
Nguyễn. Tác giả có ghi thêm : Giặc Tây Sơn là giặc
lớn trong nước, rốt đời nhà Lê, lấy
hết nước Nam, làm vua được 18 năm, bị
nhà Nguyễn bây giờ lấy lại Hán dân và Thổ dân.
Có
một chữ khó hiểu đối với chúng ta ngày nay
là chữ Hán dân để hiểu là dân Việt Nam,
đối nghịch với chữ Thổ dân là
người Cao Mên. Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia
Định Thành Thống Chí thì Hán dân, người Hán
thường hiểu là người Việt Nam.
Mấy
người có công với vua Gia Long.
1)
Một là ông Kẹ. Tự vị viết : Tưởng
là ông Trị, là người có công dày với đức Cao
Hoàng, đến khi phục quốc, người ban cho
một cái bài miễn tử, bổn tánh ông ấy thật
thà, hay khi bất bình, ai nấy đều sợ cho nên có
tiếng nhát con nít rằng : ý hà ông kẹ...
2)
Hai là ông Hương, hiện có miễu thờ ở
khúc sông kêu là Bần qùi thuộc hạt Tân An. Ông xá sai
Hương lãnh đi vận lương cho đức Gia
Long, thuyền về tới khúc sông ấy bèn gặp
giặc sợ nó đoạt, túng phải đục
thuyền chở lương thực cho chìm mà chết
tại đó. Đức Cao Hoàng nghĩ vì ông ấy ở
hết lòng bèn cho làng lập miễu thờ, cũng gọi
là miễu ông. 3) Người thứ ba không phải là
người có công với vua Gia Long mà có công với đoàn
người đi vô nam làm ăn sinh sống, khai khẩn
miển đồng bằng sông Cửu Long. Đó là ông
Thủ Huồng. Ông là người kết bè tại ngã
ba sông Đồng Nai mà nuôi những người ở ngoài
kia mới vào đất này, thuở nhà nước Annam
mới lấy đất Biên Hòa. Người ngoài kia
được viết rất trống, nhưng thu gồm
một đoàn người thuộc nhiều địa
phương khác nhau từ Quảng Bình, Quảng Trị cho
tới Bình Định Qui Nhơn.
3. QUAN HỆ BANG GIAO
Trước
hết, có bang giao với Trung Quốc là nước láng
giềng khổng lồ. Có nhiều từ, nhiều thành
ngữ nói lên tâm tưởng nggười VN thời đó
đối với người nước bạn xưa
kia đã tới đô hộ đất nước này.
Trước hết, Trung quốc được gọi là thiên
quốc tức Đại Thanh, nước vua trời
còn nước VN đối với họ là một thứ
bình hàn, đứng che như vách, nghĩa là
nước nhỏ ở một bên nước lớn, làm
phên vách cho nước lớn. Trung quốc kêu nước
Annam là bình hàn của mình.
Người
VN có nhiều từ để gọi người Trung
quốc. Từ điển Đắc Lộ hơn một
lần ghi Ngô, thằng Ngô để chỉ
người Tàu một cách khinh khi, Quấc Âm Tự Vị
ghi chệc là người khách. Chữ chú
người Triều châu đọc là chệc, thành chú
chệc. Các chú cũng là tiếng để gọi
họ, tỏ liên hệ anh em, bác chú, về họ thuộc
đàn em. Chú khách, chệc khách cũng là tiếng
gọi họ. Chữ Ngô được định
nghĩa là danh hiệu cũ nước Trung quốc,
đờì nhà Minh. Do đó có nước Ngô, thằng
Ngô hay thằng khách, nói cách khinh bạc.
Cũng
còn mấy từ tỏ vẻ không am hiểu tiếng nói
của họ như xí xô xí xào là tiếng nói om xòm
của người Tàu, người Ngô. Thành ngữ làm
như khách chìm tàu là làm ra tiếng ồn ào, kêu la inh
ỏi, như người Ngô chìm tàu, chỉ nghĩa là làm
tâng bần vỡ lở. Sự ngộ nhận hay khinh
bạc này còn được tỏ ra trong thành ngữ nói
Ngô nói Lào là nói chuyện quanh co khó hiểu.
Nhưng
họ có thứ bí gọi là bí Ngô, thổ sản Trung
quốc đối với bí rợ thổ sản
của mọi, nhất là có thuốc bắc là
thuốc Trung quốc chở qua. Quen hiểu cây cỏ
vị thuốc ở về phía bắc, đất
nước cao ráo, khí vị hậu hơn, mạnh hơn
thuốc bên nam. Họ cũng là người biết cách làm
ăn sinh sống, nhất là buôn bán, khôn ngoan, lấy lễ
ngãi làm đầu việc thương mại như trong
thành ngữ hay tục ngữ khách mạnh nước
nạp. Tự vị gọi những người Tàu qua
lậu ở VN là khách thuộc và Minh hương là
người thuộc nhà Minh (Minh hương = làng Minh),
người làng Minh, chính là con cháu người khác, lấy
vợ Annam mà đẻ ra.
Liên
hệ với người phương Bắc là Trung
quốc, chúng ta còn bang giao với dân tộc phương
Nam. Tự vị cho biết người
Lồi là người Chiêm Thành thuở trước.
Tự vị viết Chăm (Chàm), nguyên là
người nước Chiêm Thành ở từ Thuận Hóa
trở vào cho tới Bình Thuận. Còn Thuận Thành thì ở
tỉnh Bình Thuận, ngày nay còn sót
lại một ít người Chiêm Thành cũng kêu là
người Hời, chịu phép Annam. Về
người Hời hay xứ Hời tự vị cắt
nghĩa là người nước Chiêm Thành, thuở xưa
ở từ Quảng Nam sau mất nước xiêu bạt
nhiều chỗ, bây giờ ở tại tỉnh Bình
Thuận hãy còn một ít làng. Theo hai đoạn giải
thích, chúng ta thấy nước Chăm (Chàm) thời xưa
ở từ Thuận Hóa cho tới hết đất
Quảng Nam, tức hai xứ Thuận Quảng.
Đối
với Cao Mên hay Campuchia ngày nay, cuộc bang giao nhuốm màu
sắc khinh khi với những tiếng nặng óc kì
thị, tuy dân tộc Khờ Me đã có một thời hoàng
kim với những công trình nghệ thuật
được kể vào hạng kì quan thế giới,
điện đài Đế thiên Đế thích. Thường có thành ngữ
Mên Mọi, Mán Mọi. Trên đây đã nói tới trấn
Tây thành trên đất Cao Mên, nay có danh hiệu chiến
thắng, đánh được trận quan Annam
đặt cho Chà và Châu giang vì nó có công dẹp giặc Cao
Mên. Câu tục ngữ đầu gà đít vịt có
nghĩa là lai căn, không rặc nòi (thường nói về
con lai với Mên, Mọi và Mên). Người đàng
Thổ là người Cao Mên, người mọi,
thổ quan, quan đàng thổ
là quan mọi, vì theo lệ nước Annam có cho mọi làm
quan mà hay lấy nhau. Củng ở trên đất Cao Mên có
trấn Gò vào đời Minh Mạng. Người Cao Mên thường
gọi vua Annam là vua trời hay vua thiên hạ. Tự vị
ghi rõ : đó là tiếng các nước Mên, Mọi
xưng tặng vua Annam. Ở chữ vua, tự vị
cắt nghĩa thêm vua trời, người Cao Mên gọi
vua Annam là vua trời, vua Xiêm là vua đất. Cũng nên
lưu ý, nước Champuchia ở giữa hai
‘‘cường quốc’’, Thái Lan và VN, ở vào mấy
thế kỉ trước, cho nên thường bị hai
nước lân bang chèn ép. Tuy nhiên người Cao Mên có
thứ sáp riêng đánh môi khá đặc biệt và có phép
gồng mình đặc sắc, làm cho mình hóa ra như
đồng như sắt, gươm chém không đứt,
súng bắn không thủng, ấy là phép Cao Mên hay tin.
Riêng
về người miền núi thường gọi là
Mọi, tự vị cho thấy có su khinh chê rõ rệt : có
buôn bán với người mọi kêu là buôn Mọi,
nhưng cũng có bán mọi buôn mọi : cuộc buôn
bán mua người mọi rợ. Chúng tôi cho chỉ là
việc nhỏ hẹp, chứ không thành thứ
thương mại rộng lớn trên bình diện quốc
gia.
Tự
vị còn cho hay hai chi tiết về sinh hoạt
người miền sơn cước. Thứ nhất
họ có một thứ tre lồ ô, thứ tre lớn
cây mỏng cơm, bộng ruột cùng giao lóng. Mọi không
có muối phải lấy tro nó mà ăn. Thứ hai vì họ
không biết chữ hay chưa có chữ viết cho nên
họ có một cách để trao đổi tư
tưởng, ý nghĩa đó là việc thắt nút,
Mọi thắt gút. ‘‘Nhiều mán mọi không biết
chữ, muốn cho nhớ việc gì, hoặc giao
ước với nhau làm sao, thường lấy dây
thắt gút mà làm dấu, hiểu ra sự thật thà,
cũng như đời thượng cổ không có
chữ, có muốn làm dấu về sự gì phải
thắt gút ; kêu là kiết thằng chi chánh, đời
nay lại hiểu ra nghĩa gắt chặt, cố
chấp dại dột. Có tiếng nói : làm như Mọi
thắt gút, thì chỉ nghĩa là khân khân có một bề,
hễ nói ra thì gia lấy, không biết châm chế’’
Về
vương quốc Lào, tự vị cho biết : Lào còn
gọi là Lèo, là nước ở phía trên nước Cao Mên,
chạy dẫn cho khỏi tỉnh Nghệ An, cũng ở
phía trên nước Annam, phân ra có Lào thượng và Lào
hạ. Lào thượng ở trên xa, Lào hạ ở phía
dưới, dân số có ít. Cũng có câu tục ngữ Đâm
Lào thế mọi, là đem người này ra, thế
người nọ vào, nói về cuộc buôn người,
hiểu nghĩa là tráo trác, làm chuyện dối nhau.
Còn
hai vương quốc hay hai nước ‘‘mọi’’ tự
vị nói tới là vua nước và vua lửa :
Thủy xà, Hỏa xà, ở phía trên tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa
chịu thuế cho VN. Đào Duy Anh viết trong Đất
Nước Việt Nam : ‘‘ Ở miền tây Phú Yên
và Khánh Hòa thì hai bộ lạc lớn Hỏa xá và Thủy xá
đã triều cống chúa Nguyễn từ khi họ
Nguyễn mới lập nghiệp ở miền Thuận
Quảng, nhưng đồng thời cũng triều
cống cả nước Cao Mên. Về sau các vua nhà
Nguyễn cũng để cho họ tự ý khi nào muốn
thì triều cống và mỗi lần triều cống thì
nhà Nguyễn lại thưởng cấp rất hậu
để mong giữ những bộ lạc ấy làm phên
giậu đối với nước Cao Mên ở phía tây’’
(Sd tr.165)
4. PHONG TỤC TẬP QUÁN
Tự
vị cho biết qua về nhiều phong tục tập quán
thời đó. Chúng tôi lựa chọn một số trên
phạm vi sinh hoạt dân gian.
1) Có
những tập tục về
hôn nhân như lễ hỏi tức là lễ sơ
vấn, cho biết đàng gái có ưng làm vợ chồng,
có lệ cheo, tức lễ chiêu thân, nạp tiền
cầu thân (nói về lễ cưới). Lệ cũ,
hễ có đám cưới đi ngang qua làng nào, thì làng
ấy đem ít thước lụa đỏ, giăng ngang
qua đàng mà đón, gọi là nhai lan, khi ấy đàng
trai phải đem tiền, như khác làng thì 3 quan,
đồng làng thì ít hơn, mà xin làng biết lấy mình
cùng cho đi thong thả, ấy là nghĩa chiêu thân. Có lễ
nhập cẩn, lễ vợ chồng mừng nhau :
thuở xưa dùng một trái bầu nhỏ cắt làm hai
cái chén uống rượu, chồng một cái vợ
một cái, rót rượu vào, khuyên mời nhau uống, trong
lúc mới rước dâu về.
Trong
ngôn ngữ thông dụng còn có cách nói tránh né. Thí dụ
tiếng thành đôi được cắt nghĩa
thế này. Đã nên đôi cặp, tiếng nói riêng về
đồ cưới, không dám dùng tiếng một là số
lẻ. Muốn nói một đôi thì phải nói thành
đôi. Có ý thức cho vợ chồng mới thành đôi
bạn. Tránh số lẻ, số một chỉ đơn
chiếc, chia li xa lìa.
Trong
tiệc cưới, có lệ thưởng cỗ.
‘‘Thưởng tiền dọn cỗ. Phép cưới
lấy vợ lấy chồng, người ta thường
đãi cỗ, ăn uống rồi họ trai hoặc
họ gái muốn cho lịch sự phải đem 5, 10
đồng bạc mà thưởng’’
2) Có
những tập tục khi sinh đẻ, như đâm
lẻ. ‘‘Thử cho biết người có chửa
đẻ con trai hay con gái. Làm phép này thường thấy
nhiều người cúng một con gà mái, rồi lấy tre
vót một đôi đũa mà không trảy cái vót để
coi nó cuốn hay là lơi. Cuốn thì là đẻ con trai,
lơi là con gái, vót rồi thường giắt trên mái nhà’’.
Tác giả thêm :‘‘ Không biết lấy đâu làm bằng’’.
Tục khem được cắt nghĩa thế này :
‘‘Cây cắm ra cho biết việc trong nhà có việc kiêng
cữ : ấy là một cây dài nhỏ, chẻ ra một
đầu, giắt một đoạn củi vắn
đã có chụm rồi, cắm ra trước nhà cho
biết nhà có người nằm bếp, đẻ con trai
thì trở đầu cháy vào nhà, đẻ con gái thì trở
đầu cháy lộn ra’’.
Sau
khi sanh được ít bữa thì có tục móc miếng.
‘‘Phép lấy bông hoa nhúng nước mà rơ miệng con nít,
chúc cho nó lớn lên ăn nói khôn ngoan, khước kháo, (con
nít sanh được ba bữa thì làm phép ấy). Tục
lại hiểu là móc cục máu trong miệng con nít hồi
mới lọt lòng’’.
Lễ gia quan là lễ đội mão (mũ), lễ
chúc phước cho con trai đã được hai tuổi,
nghĩa là đã đến tuổi khôn. Lễ
đứng kén. Đã tới tuổi cho người ta
trừ xâu thuế. Đi đứng kén thì là đi
tới chỗ kén chọn, đứng ra cho người ta
coi già trẻ thế nào. 55 tuổi về bậc lão
hạng, khỏi xâu (xưu). 60 tuổi về lão nhiêu,
khỏi cả xâu thuế.
3) Tới tang ma thì có nhiều tập tục. Về
liệm thi có đại liệm : phép liệm ngoài,
dùng vải nhiều lớp, để ngang để dọc, bó cứng
tử thi, rồi mới để vào hòm. Tiểu
liệm : phép liệm trong, là để người
chết vào hòm, cũng dùng nhiều lớp vải ngang
dọc mà bó buộc sơ. Hậu liệm : Tẩn
liệm lớn, đem áo quần, mền chiếu theo
nhiều. Tẩn Liệm : Liệm mà để lâu,
quàn lại cùng có nghĩa là liệm. Khi đưa linh
cữu ra nghĩa trang, có tục nằm đàng là
sấp mình giữa đường cho quan tài qua, trong các
đám ma lớn, hễ khiêng quan tài đi thì các con cháu
người chết hay nằm đàng, có ý làm việc
hiếu thảo.
Có
tục hò đưa linh kha kì dị: trong lúc khiêng quan
tài người ta hò rập nhịp nhàng, để cho
đỡ mệt nhưng cũng chủ ý kể lể than
vãn!
4) Tín ngưỡng, dị đoan. Tín ngưỡng dân gian thường
có nhuốm màu sắc dị đoan mê tín. Sự phân
biệt nhiều khi khá tinh vi. Tự vị cho biết
một số tín ngưỡng dân gian, như chung quanh
chữ đồng, có ngồi đồng, sai
đồng, lên đồng, xáo đồng.
Chung quanh chữ coi, có coi giò, coi tuiổi, coi
ngày, coi số, coi tay. Chung quanh chữ dinh,
có dinh cậu, dinh năm ông. Chung quanh chữ bóng,
có đồng bóng, cô bóng, mụ bóng. Chung
quanh chữ hồn, có gọi hồn, cô
hồn, hớp hồn. Ròi còn có xin keo, phá
ngục, nhưng sao, tống quái, tống
tai, có tam cô lục bà, có pháp độn, nham
độn... chúng tôi không cắt nghĩa theo tác giả,
vì quá dài giòng, chúng tôi ghi mấy chữ về một vài
điều làm thí dụ.
-
Bảy bà ba cậu : Bà chúa Tiên, bà chúa Ngọc, bà chúa
Xứ, bà chúa Động, bà chúa Cô hỉ, bà Thủy, bà
Hỏa. Cậu Qui đế là con bà chúa Ngọc, làm bạn
với một vị thái tử Trung quốc mà đẻ ra
cả thảy đều là thân qủi hay làm họa
phước, có cậu Lý, cậu Thông, nói theo vần kể
có ba cậu, và hai người sau không có sự tích
-
Tam cô lục bà: cô Vãi, cô đạo, cô bóng. Bà lo
việc nhà, bà mai, thầy dạy, bà lo việc cung cấp,
bà lo việc thuốc, bà mụ. Ni cô, đạo cô,
quái cô, nha bà, mai bà, sư bà, kiêng bà,
dược bà. Tam cô, lục bà, nãi dâm, đạo
chi ma, nghĩa là ba cô sáu bà ấy đều là
người đem đường dạy việc gian dâm.
-
Tam bành: Chính là Bành kiêu, Bành trạch, Bành thoăn là ba
con qủi ở trong mình người ta, giục
người ta làm tội (Truyện Hồng bào).
Thường nói về đờn bà hung dữ.
-
Bà đá: Bà thần Thạch hoa vương mẫu
ở trong tượng Pháp vân mà sanh ra người ta nói
hiển linh lắm, về trấn Bắc ninh.
-
Chùa Bà: Chùa thờ bà Mẫu hậu, tục gọi là
Mã châu, nguyên gái trinh người Phước kiến, con
họ Lâm; chết thành thần, hay độ người
vượt biển cũng kêu là Thiên hậu ngươn
quân.
5. TIÊU KHIỂN, GIẢI TRÍ, GIẢI LAO
Tự
vị cho biết có nhiều trò chơi trẻ em như
đá bóng, kéo thèo lèo, đánh vụ, cà khèo, cờ chó,
chọi tiền, đánh lú, cút bắt, đánh đổi,
đánh giằn, đánh đũa, đánh lăn, xỏ lá,
đánh đáo lỗ... Trò chơi người lớn không
có nhiều.
-
Cờ tướng: cuộc chơi có 32 con cờ, phân
ra có tướng, sỹ tượng, xe, pháo, ngựa,
chốt. Về từ ngữ cờ tướng,
người ta thường nói: mã, tốt, (mã là ngựa,
tốt là chốt). Ở đây dùng xe, pháo, ngựa, chốt,
chứ không xe, pháo mã tốt.
-
Đá gà, chọi gà
-
Thả diều, vừa là thú tiêu khiển trẻ em và
người lớn với thứ diều lớn.
-
Cổ chơn: người đời xưa, cuộc
chơi nhắc tích người đời xưa, cùng
mượn hình 36 con thú. Chúng tôi chưa hiểu về
cuộc chơi này.
-
Đánh me: Gây ăn thua theo cuộc chơi tiền
-
Đánh tài mển: tiếng nói trong cuộc đánh me
rằng đặt cửa một, có bao nhiêu, ăn chung
bấy nhiêu
-
Đánh bài: cuộc chơi bài giấy, bài cây: có tứ
sắc, bài phụng, bài phi, bài tam cúc, bài tới, bài khá
hấu, bài xá hỏ...
-
Bài tới: thứ bài bắt cặp, ai bắt
được đủ cặp trước thì gọi
tới, nghĩa là đến trước rồi cùng
được ăn tiền.
-
Bài tổ tôm: thứ bài nhiều môn món, lấy bài
tới mà làm ra. Định nghĩa cách chơi như
vậy thực ra cũng chưa rõ, phải nói là thứ bài
120 quân chơi năm người, còn tài bản cũng là
thứ chơi bài 120 quân nhưng ba người.
Nhưng
lối chơi thú vị nhất và bình dân nhất thuộc
đại chúng có lẽ là chơi đánh đu.
-
Đu tiên: cuộc chơi làm như cái bánh xe, rộng
vành, phía trong bày nhiều ghế ngồi treo đong
đưa, phải có nhiều người ngồi mà nhún
thì bánh xe chạy vòng, ấy là cuộc chơi phong lưu,
cho nên gọi rằng đu tiên.
-
Đu ngô: Cuộc chơi dùng một cây ngang, dài
giữa có lỗ khoét, tròng vào cột đầu trụ
trồng dưới đất, hai người ngồi hai
đầu cây dài mà nhún xây quanh.
-
Đu bầu: Cuộc chơi dùng chừng 6 cây cau,
trồng giãi chân, đầu cây cột tóm lại giống
hình cái bầu, ở giữa tra bàn đứng có hai cây
kềm, treo tại chỗ cột tóm ấy, một
người hoặc hai người đứng trên bàn
đạp mà nhún lên nhún xuống.
-
Đu lộn: cuộc chơi đu lộn giống
như đu bầu mà dùng có hai trụ, trên tra cây ngang
dưới treo bàn đạp, một người trèo lên mà
nhúng cho trật đòn rọc chơn trở lên trờI,
đầu dộng xuống đất.
-
Đu rút: cuộc chơi trồng hai cây trụ, trên tra
cây ngang, bỏ choàng một sợi dây, một người
lấy chân đạp một mối, tay phăn một
mối mà trèo lên.
6. SINH HOẠT VĂN NGHỆ
- Môn vũ: Môn vũ thường vẫn là môn
nghèo nàn trong nghệ thuật dân gian của ta. Nhảy múa
thuộc về tôn giáo hơn ngoài xã hội, và hình như
nhảy múa bắt nguồn từ đạo giáo. Chúng tôi
thấy có múa bóng : ‘‘Lễ cầu khẩn
hoặc tạ ơn các vị thần nữ, thường
phải dụng bóng chàng dâng bồng hoa, múa hát cho các vì
thầy xem’’. Bóng chàng, mụ bóng là đờn bà
làm việc phù phép, hay việc bói khoa. Cũng vậy có nhảy
đàn: ‘‘Cuộc thày chùa thày pháp vi đàn, chạy
qua chạy lại trước chỗ lập đàn mà
tụng kinh, hoặc hò hét làm việc trừ tà’’. Chạy
đàn cũng là nhảy đàn: ‘‘phép thày chùa cầm nhang
rảo qua rảo lại mà tụng kinh’’.
- Ca hát:
Về ca hát chúng ta thấy có mấy từ cần phải
được tra cứu thêm, như: ca hát, ca
xướng, ca ngâm, ca ngợi, ca trù, ca
diêu, (ca dao), ca vũ; có đờn ca, âu ca,
sanh ca, (sênh ca). Ở chữ hát, chúng ta có mấy
định nghĩa lí thú mở cho chúng ta biết một ý
quan niệm về môn này. Lý hát: vừa kể vừa
hát có mau có chậm. Mầng hát: bày cuộc hát
xướng mà mầng việc gì. Hát kể: hát
giọng kể lể, hát giọng khoan thai, như giọng
thài, (thài là ca theo điệu khúc). Hát xoan: cùng nghĩa
; cũng là hát xoan mặt, nghĩa là mầng thần,
hát trước cho thần xem. Hát hoa tình: hát lời nói
xa gần, làm cho cảm động, cùng chọc ghẹo
nhau. Hát ghẹo: lấy tiếng hát mà chọc ghẹo
ai, ấy là cách con trai con gái hát mà chọc ghẹo nhau,
thử ý nhau, dụ dỗ nhau. Hát giọng chèo ghe : hát
mực thiệt. Hát đưa em, hát giọng êm ái
(đưa em có thể là ru em). Còn về cách hát thì có, hát
rập: nhiều hát một lượt. Hát nam: hát
giọng ngâm nga. Hát khách: hát giọng mạnh mẽ. Hát
tẩu mã: hát giọng chạy ngựa, hát gấp. Hát
loạn: hát giọng phiên tướng. Tự vị có
nói tới hát bội, nhưng lại định nghĩa
một cách lạ lung, xa lạ: hát bội là con hát, kẻ
làm nghề ca hát (?)
- Về đàn địch: Tự vị ghi một số
đàn. Đó là đàn gió: đàn ống có máy
đạp nổi gió, phát ra tiếng. Đây là đàn mới du nhập,
tức phong cầm (harmonium). Còn đàn cổ
truyền thì có: đờn kìm, đờn nhiều dây.
Đờn cò: đờn hai dây kéo bằng dây cung. Đờn
tranh: đờn nhiều dây, phải để nằm
mà đánh. Đờn sắc (sắt): đờn 36
dây. Đờn tì bà: đờn nhiều dây. Đờn
tam: đờn ba dây. Đờn gáo: đờn
cột dây, độc huyền. Đờn bầu:
đờn hai dây cũng về một loại với
đờn cò. Về mấy bản đàn phổ thông
như lưu thủy hành vân, cũng như về
những giọng hát nổi tiếng như vọng
cổ, xàng xê, cải lương không thấy nói
tới.
- Về kịch, tuồng, chúng ta thấy có diễn kịch,
tác kịch: làm trò, hát bội. Tuồng là sự
tích cũ làm ra chuyện ca hát. Có tuồng tập,
chuyện cũ tích cũ làm ra bài ca hát. Vai tuồng : làm
tuồng mình phải hát, làm tuồng, lãnh hát lối nào trong
tuồng. Đánh đầu tuồng, ra tuồng:
mở đầu bài, giáo đầu, hát giáo đầu. Tuồng
đồ, tuồng hát riêng chuyện ngoài. Tuồng pho,
tuồng truyện: tuồng hát cả truyện trong
sách. Nói tuồng: xướng đọc tuồng
tập theo cách ta đặt ra. Ra vai tuồng: hát ra
lối nào trong tuồng. Dở vai tuồng: mở
đầu bài mà hát, xướng ra trước.
Tự
vị nhắc tới hai vở tuồng dân gian:
1)
Hát thằng Lía. Lía là tên tục Văn Doan, nguyên là
người Annam, sinh đẻ tại Qui Nhơn, còn
nhỏ mà học võ rất có tài. Sau muốn ra giúp
nước mắc quan nịnh yểm ức, thất chí
qui lâu la làm ra một đảng ăn cướp rất
lớn. Lấy một sự y có hiếu là y lấy
của kẻ cướp đem cho nhà nghèo. Cho nên
người ta có làm tuồng tập thể để
đời.
2)
Vở thứ hai rất có tiếng với tích truyện
không kém phần duyên dáng và phổ biến trong dân gian. Đó
là Kim Thạch kì duyên: doan vàng đá, doan trời cho.
Truyện ghi Kim họ Thạch, người ta đã
dịch ra tuồng.
- Về hội họa kể như không có gì ngoài một ít
bức vẽ sơn thủy, vẽ cảnh núi non,
sông suối, vẽ thủy mạc, vẽ trơn mà
không giặm nước thuốc. Vẽ nổi,
vẽ nổi hình ra ngoài. Có ảnh vẽ, tượng
vẽ, tranh vẽ và câu nói lịch sự như
bức tranh vẽ, lịch sự lắm. Lịch
sự có nghĩa là đẹp xinh.
7. MỘT CHÚT BÁCH KHOA
Nếu
nói về từ điển học, về ngôn ngữ
học thì tự vị còn nhiều chỗ sắp xếp
chưa hoàn chỉnh, nghĩa các từ chưa được
phân tích và đặt để hợp lý. Hơn nữa,
theo các cuốn tự vị trước đây như
Việt Bồ La của Đắc Lộ 1651. Nam Việt
Dương hiệp tự vị của Taberd, tác giả
ghi tất cả nhưng kết hợp có thể có
được, như sau này Từ Điển Việt Hoa
Pháp (Dictionnaire Annamite Chinois Francais) của G. Hue viết là en
composition avec (kết hợp với). Do đó, chúng ta
thấy thí dụ nẫu, có trái nẫu, nẫu
ruột. Có mù, mù mịt, tối mù. Việc
làm này có ích cho người ngoại quốc dể học
dễ nhớ tiếng mình học. Mà cũng do đó, các tác
giả kể trên đã làm một công trình thuộc về
bách khoa tự điển, chúng tôi để hiểu
nghĩa. Thí dụ về chữ bánh, có kê khai một
số bánh. Về chữ cá, có kể ra một số
cá. Nhờ đó ngày nay chúng ta biết được
nhiều điều thuộc về quá khứ và cả
về hiện tại. Chúng tôi gọi là ‘‘một chút bách
khoa’’.
Chúng
tôi kể ra một số để chúng ta cùng
thưởng thức.
- Bánh.
Bánh bò, bánh thuẫn, bánh nhãn, bánh gầng,
bánh tráng (bánh đa), bánh giầy, bánh ếch
(cũng gọi là bánh ít), giống hình con ếch. Bánh tét,
(bánh tết), nói chữ là thiên bỉnh nếu hiểu
nghĩa thiên viên địa phương (trời tròn
đất vuông). Bánh cúng, bánh chưn, giống
hình cái chân cũng gọi là địa bỉnh. Bánh
ú, cũng gọi là giác bỉnh, có ba góc. Bánh hỏi,
bánh ép có sợi mà ráo rê hay là ráo hỏi, mượn chữ
hỏi mà đặt tên.
- Ghe. Ghe cộ, ghe guộc, ghe bầu, ghe
trường, ghe nan, ghe cửa, ghe bản lồng, hay ghe
lồng, ghe bất mần, ghe vạch hay ghe
mỏ vạch, ghe cui, ghe trẹt, ghe chài, ghe lườn,
hay ghe độc mộc thuyền, ghe ngo, ghe
vợi, ghe đò, ghe giàn, ghe câu, ghe lưới, ghe be, ghe cá, ghe lái ngoài, ghe đuôi tôm then trổi, ghe
hầu, ghe lê, ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe chiến, ghe vẹm, ghe khoái, ghe hàng bỗ.
- Điền. Phương điền, trực
điền, viên điền, giác điền, (vuông, dài, tròn,
xéo), điền sản, điền địa,
điền thổ, điền trạch, điền tô
(thuế ruộng), điền trang (ruộng vườn,
ruộng chung quanh vườn) thạch điền, hạn
điền, (ruộng gò), lương điền (ruộng
tốt, cao du chi điền (ruộng tốt lắm),
đồn điền (qui dân phát đất làm ruộng,
để phòng khi có giặc lại dùng mà làm binh, ấy là
tịnh vi nông, độ ng vi binh). Tịch
điền (ruộng xã tắc, Thần nông, nhà nước
tri ra để mà thờ ông thần bá cốc, ở đó
lập đền thờ kêu là Xã tắc, hoặc vua
hoặc quan lớn trong mỗi năm phải hạ canh làm
gương cho dân bắt chước. Bổn thôn công
điền (ruộng chung của làng), công điền
(ruộng của quan), tư điền, (ruộng riêng)
thanh điền (ruộng đã thành thục), vị thành
điền. Chúng ta có thêm công điền, như ở trên
đã nói khi qui chế về tĩnh điền.
- Trầu. Trầu chà lẹt, trầu Sài gòn,
trầu bai, trầu bai quế, trầu bộ, trầu
sốc vinh, trầu rừng.
Chúng
tôi ngưng ở đây vì có thể ghi thêm những mục
rất lí thú như về: cây, hoa, khoai, lúa, ngựa, nhà, ong,
sao, tầm, tre...
Chúng
tôi cũng thêm, ở trang đầu tập 2, mục Sai sót
có ghi một số cá, loại cá, tất cả là 17
loại. Còn về sầu riêng, thì viết buồn bã
về chuyện riêng, còn về trái sầu riêng thì ghi:
thứ trái cây lớn mà tròn, vỏ nó gai giống như cây
mít, trong ruột nó cũng có múi như múi mít, chữ gọi
là châu liên. Chúng tôi trộm nghĩ sầu riêng có
thể được đọc từ châu diên, hay
ngược lại?
8. TIẾNG ÐÀNG TRONG
Như
chúng tôi đã nói, chúng tôi không nói về mặt ngữ
học, từ điển học trong bài này, chúng tôi
chỉ bàn qua về tiếng Đàng Trong được ghi
bàng chữ quốc ngữ kể từ 100 năm nay.
Trước
hết, chúng tôi thấy trong tự vị có ghi một
số tiếng địa phương hay phương
ngữ như cái khậu là cái quần nói theo tiếng
Triều Châu, như khậu là kho vãn trong tiếng Triều
Châu. Khờn, khờn là mòn, rựa là con dao
lớn, cái rựa và nhiều nữa. Một vài
tham khảo chi tiết sẽ rất bổ ích.
Sau
đó là lối phát âm khác, riêng thuộc Đàng Trong mà ngày
nay với việc thống nhất ngôn ngữ văn
tự, trên sách vở chúng không còn lý do tồn tại. Đó
là những tiếng như nhơn (nhân), kiến (kính),
cảnh (kiểng), chấng (chứng), chưn (chân,
chơn), chường (trình), doan (duyên), nhít (nhất,
nhứt), quờn (quyền),
chích (chiếc), đờn (đàn), đương
(đang), giái (giới),
giầng (giường), hấng (hứng),
hườn (hoàn), yếng (ánh)...
Có
một số cách phát âm khác vì muốn tránh tên húy, như
huỳnh (hoàng), yếng (ánh), nhơn (nhân), kiểng
(cảnh), ngươn (nguyên) có lẽ bởi vì có những
ông chúa, ông hoàng có tên Nguyễn Hoàng, Nguyễn phúc Nguyên,
Nguyễn phúc Ánh, Hoàng tử Cảnh ? Dẫu sao tự
vị cho biết về giọng Đàng Trong, như sau:
-
Giọng Huế: Tiếng nói lấy hơi xuống,
tiếng người Huế ở Bắc nói.
-
Giọng Quảng: Tiếng nói suổng không có hơi
nặng nhẹ, giọng Đồng Nai cũng là giọng
Quảng.
-
Nói Huế: Nói giọng người Huế, nó giọng kim,
giọng trầm.
-
Tiếng Quảng: Tiếng nói nhẹ không phải giọng
Huế, từ nửa tỉnh Quảng nam sắp về
Đồng nai.
Nhưng
nếu tự vị chỉ nhấn mạnh tới cung
giọng, thì cũng chưa cho chúng ta biết thấu
suốt về tiếng Đàng Trong, tiếng Đồng
Nai. Bởi vì nếu nghiên cứu cho sâu đậm thì không
những tìm hiểu về cung giọng mà còn nghiên cứu
về từ ngữ riêng, pháp cú riêng, một chút một
thứ ngôn ngữ tinh ròng dân gian của đồng
bằng sông Cửu Long vào thế kỳ 17 này. Cái giọng tr
ọ trẹ thuộc gốc xứ Nghệ, Bình
Định được tự vị giải thích
như sau.
-
Nói trọ trẹ: Nói theo giọng nặng, nói
Huế, đối với nói Quảng là nói giọng
suổn, không nặng nhẹ; từ bên này Ải Vân trở
vào tới Đồng Nai đều nói theo giọng
Quảng.
-
Trọ trẹ: Giọng nói Huế, giọng nói
nặng, đối với giọng nói Quảng là giọng
nói suổn mà nhẹ. Người Annam từ bên này Ải
Vân trở vào Nam kỳ đều nói Quảng, từ bên kia
Ải trở ra Bắc kỳ đều nói Huế, song
cũng có nhiều tỉnh nói giọng Huế mà
thanh bai.
Có
một tiếng cần phải giải thích là chữ suổn,
có nghĩa là đơn sơ, trơn, thường (theo
tự vị). Cho nên nói suổn là nói trơn, nói
như thường, còn đọc suổn là đọc
trơn, đọc không ngân nga, đọc một cách.
Cũng
không thấy tác giả bàn tới giọng Bắc kỳ,
từ Ninh Bình tới biên giới Trung quốc, từ
thập nhị thừa tuyên, mười hai tỉnh
thuộc Bắc kỳ.
‘‘Cầu
Giát giữa đường Thanh Nghệ
Đã nghe chớm giọng Đàng
Trong’’ (Hồ Dzếnh).
(Phần
hai của bài, chúng tôi chuyển qua mục Tục ngữ,
thành ngữ trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị.)
Nguyễn Khắc
Xuyên
Giới
thiệu để kỷ niệm 100 năm (1895-1995)
Nguồn: http://www.giaoxuvnparis.org