Bòng bong che nắng, mã-tà tiên phong
Nguyễn Dư
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là
một nhân chứng của thời kì Pháp xâm chiếm Nam Kì.
Văn thơ của ông ghi lại được nhiều
sinh hoạt xã hội đương thời. Chẳng
hạn như hai câu:
"Bữa thấy bòng bong
che trắng lốp muốn tới ăn gan; ngày xem ống
khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ. (...)
Kẻ đâm ngang,
người chém ngược, làm cho mã-tà, ma-ní hồn kinh ;
bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tầu
thiếc tầu đồng súng nổ".
Bòng bong và Mã-tà của Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc có thể giúp chúng ta
hiểu thêm được tình hình chiến trận năm
1861.
1)
Bòng bong là cái gì?
Bòng bong được định nghĩa là
một thứ cỏ rối (Việt Nam tự
điển, Khai Trí Tiến Đức, 1931); một
loại dây leo mọc xoắn vào nhau thành từng đám,
ở bờ bụi. Bòng bong còn có nghĩa là xơ tre
vót ra bị cuốn rối lại, thường dùng
để ví tình trạng rối ren (Từ điển
tiếng Việt, Hoàng Phê, 1988).
Nếu Bòng bong chỉ có
nghĩa như vậy thì dứt khoát nó không phải
làmột đồ vật (trắng lốp) dùng để
che. Bòng bong của Nguyễn Đình Chiểu chắc
chắn không phải là Bòng bong của tiếng
Việt ngày nay.
Chu Thiên hiểu Bòng bong
của câu văn là lều vải của quân Pháp
căng làm chỗ tạm trú trong lúc hành quân (Thơ văn
yêu nước nửa sau thế kỷ 19, Văn
Học, 1970, tr. 47).
Phong Châu và Nguyễn Văn Phú
không rõ Nguyễn Đình Chiểu dùng từ Bòng bong
để chỉ những tên lính Pháp hay đồ dùng gì
của chúng (Văn tế cổ và kim, Văn Hoá, 1960,
tr. 79).
Bảo Định Giang
cũng phân vân, lúc thì đồng ý với Chu Thiên (Thơ
văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ 19,
Văn Học, 1977, tr. 43), lúc khác lại đồng ý
với Phong Châu và Nguyễn Văn Phú (Thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu, Văn Học, 1971, tr. 251).
Chữ Hán có hai chữ Bồng.
- Bồng (bộ thảo) :
cỏ bồng, cỏ bông bong (Thiều Chửu, Đào Duy
Anh). Bồng còn có nghĩa là rối bong (Thiều Chửu).
Bòng bong của tiếng Việt ngày nay là do
chữ Bồng (bộ thảo) này mà ra.
- Bồng (bộ trúc) : mái
giắt lá. Đan phên giắt lá để che mui thuyền
gọi là bồng. Tục gọi bồng là cái buồm
thuyền (Thiều Chửu).
Mái giắt lá thì không thể
nào "trắng lốp" được. Bòng bong
của Nguyễn Đình Chiểu không phải là Bồng
(bộ trúc) của Tàu.
Huỳnh Tịnh Của
(1896), định nghĩa Bòng bong là vải, hoặc
đệm buồm may làm một bức, kéo lên mà che
nắng, thường dùng theo ghe thuyền. Génibrel (1898)
và Gustave Hue (1937) định nghĩa Tấm Bong là Espèce
de natte qui s'étend ou se retire à volonté sur le toit d'une barque pour
garantir de la chaleur ou de la pluie (một loại mành giăng
ra cuộn lại được, làm mui thuyền che mưa
nắng).
Xưa nay, thuyền của ta
chỉ có mui che hình vòm, đan bằng tre. Một số
thuyền lớn được lợp mái giống mái nhà.
Thuyền của ta không dùng vải che nắng, và không dùng
mui gấp lại được.
Có vài bằng chứng chính xác
cho thấy Bòng bong của Huỳnh Tịnh Của, hay
Tấmbong của Génibrel và Gustave Hue được
dùng cho tàu thuyền của Pháp.
Báo L'Illustration (Le livre de
Paris, 1987) đăng nhiều bài phóng sự của thời
kì Pháp đánh chiếm Việt Nam (1859-1883), có tranh minh
hoạ. Mấy bức tranh này do chính người có mặt
tại chỗ vẽ, cho thấy một số tàu và
thuyền của Pháp có mui che mưa nắng bằng vải
trắng, cuộn lại được (tr. 25, 36, 58, 59).
Trong thời gian 1884-1886, bác sĩ Hocquard cũng chụp
ảnh được mấy chiếc tàu có vải che
mưa nắng (Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 367, 382,
531).
Người Pháp gọi
những tấm vải lớn che mưa nắng này là bâche.
Bâche đã được Génibrel và Gustave Hue gọi là
(tấm) bong, được Huỳnh Tịnh Của
láy âm là bòng bong. Ngày nay ta gọi bâche là tấm bạt.
Bà con trong Sàigòn trước đây gọi những chiếc
xe hơi nhà binh che bạt kín mít (bâché) là xe bịt
bùng. Xe được bịt bằng tấm Bùng.
Bòng bong,Bong, Bùng hay Bạt là tấm
vải lớn che mưa nắng, cuộn lại
được, đều do Bâche mà ra.
Nguyễn Đình Chiểu thấy
bòng bong che trắng lốp nghĩa là thấy tàu Pháp
giăng bạt màu trắng, chạy trên sông. Không phải
Nguyễn Đình Chiểu muốn ám chỉ những tên lính
Pháp hay lều vải hoặc đồ dùng gì của chúng.
2)
Mã-tà là ai?
Bài Hịch sĩ phu kêu
gọi chống Pháp (vào khoảng năm 1875) có câu :
"Trách những kẻ toan
đường mại quốc, xui mã-tà, ma-ní, loạn trung
hoa nên thả tượng một ngà
Giận những người
bày mối giả danh, dối rằng Nguyễn, rằng Lê,
báo thiên hạ nghĩ nên rồng năm vẻ".
Mã-tà, ma-ní có mặt trong
suốt thời kì Pháp xâm chiếm Việt Nam.
Vậy mà từ điển
của Huỳnh Tịnh Của và Génibrel lại không có Mã-tà.
Huỳnh Tịnh Của chỉ nói đến Ma-tà,
nghĩa là người lính canh tuần, tiếng Mã Lai, kêu
theo đã quen.
Năm 1931, Ma-tà trở
thành người lính cảnh sát ở Nam kỳ, gọi theo
tiếng Mã Lai (Việt Nam tự điển, Khai Trí
Tiến Đức). Năm 1937, Gustave Hue lẫn lộn
Ma-tà với Mã-tà (Mã-tà:nom donné à Saigon aux
policiers. Mã-tà: tên gọi lính cảnh sát ở Sàigòn).
Nhiều học giả sau này
đã bắt chước Gustave Hue, dùng Ma-taø của
Huỳnh Tịnh Của gán cho Mã-tà của Nguyễn
Đình Chiểu.
Người Mã Lai (Malais)
gọi người lính cảnh sát là matamata. Do đó
đẻ ra danh từ mã-tà (Vương Hồng
Sển, Sàigòn năm xưa, 1968, Xuân Thu, tr. 229).
Mã-tà là tiếng Mã Lai, là lính cảnh sát (Thơ
văn Nguyễn Đình Chiểu, sđd, tr.252) . Mã-tà
là lính đánh thuê, người Mã Lai, trong hàng ngũ quân
đội Pháp (Thơ văn yêu nước Nam bộ
nửa sau thế kỷ 19, sđd, tr. 43).
Mã-tà được Chu Thiên cho giữ vai
trò quan trọng của một tổ chức lính nguỵ
ở Nam bộ thời Pháp mới sang (sđd, tr. 391).
Mã-tà khác Ma-tà ở điểm nào?
- Mã-tà trước
hết là người Việt Nam.
Trong cùng bài văn tế,
Nguyễn Đình Chiểu viết :
" Sống làm chi theo quân tả
đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc,
thấy lại thêm buồn ; sống làm chi ở lính mã-tà,
chia rượu lạt, gậm bánh mì, nghe càng thêm hổ
".
Nguyễn Đình Chiểu
trách những người Việt Nam theo Pháp. Mã-tà là
người Việt theo quân tả đạo (chỉ
người Pháp) để được chia rượu
lạt, được gậm bánh mì (pain de mie).
Bài Hịch sĩ phu kêu
gọi chống Pháp cũng trách những người mại
quốc (bán nước) đã xui giục mã-tà, ma-ní...Bọn
bán nước phải là người Việt Nam. Chúng xui
giục người Việt Nam đăng lính mã-tà cho
Pháp. (Vì muốn cho câu văn có vần, có đối nên tác
giả bài hịch đã phạm một sai lầm là cho
bọn Việt gian xui giục cả đám lính Ma-ní
của Tây Ban Nha).
- Mã-tà không phải là
tiếng Mã Lai.
Trận Cần Giuộc
xảy ra vào cuối năm 1861. Có thể phỏng đoán
rằng Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế vào
khoảng cuối năm 1861 hay đầu năm 1862. Cho
tới thời điểm này (1862), nước ta không có
liên lạc ngoại giao với nước Mã Lai (Mã Lai bị
Bồ Đào Nha chiếm năm 1511, bị Hà Lan chiếm
năm 1641, bị Anh cai trị năm 1867). Không có bằng
chứng gì để nói rằng ta phải mượn
một tiếng Mã Lai để gọi người lính
cơ, lính lệ hay lính vệ của mình.
Nước Pháp đã có
sẵn một loạt cò, cẩm (commissaire), phú lít (police),
sen đầm (gendarme), cũng chẳng cần
phải mượn tiếng Mã Lai để gọi lính
cảnh sát của mình tại một nước... chưa
phải là thuộc địa!
- Mã-tà không phải là lính
cảnh sát.
Có đội quân nào,
đặc biệt là quân đội Pháp, lại cho cảnh
sát ra trận ? Để giữ trật tự hay... ghi
giấy phạt à? Đấy là chưa nói cảnh sát
của Pháp phải biết đọc, biết
viết...lạp-bô (rapport). Năm 1861, nước ta
có được mấy người biết đọc,
biết viết chữ Pháp hay chữ quốc ngữ
để làm lính cảnh sát cho Pháp?
Mã-tà còn được Nguyễn Đình
Chiểu nói đến trong bài Văn tế Trương
Công Định : " Giăng dưới nước
tàu đồng, tàu sắt, súng nổ quá bắp rang ; kéo trên
bờ ma-ní, mã-tà, đạn bắn như mưa vãi ". Mã-tà
là lính chiến đấu.
Nói tóm lại, Mã-tà là
người Việt, không phải là lính cảnh sát, không
phải là tiếng Mã Lai. Mã-tà không phải là Ma-tà.
Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh có từ Mã
tiếu (Chữ tiếu còn có âm đọc là tiêu,
là tiệu), nghĩa là lính cỡi ngựa
hoặc đi chân, chuyên làm việc cảnh giới, dò
kiếm xem xét. Có nhiều khả năng là mã tiếu
(mã tiêu, mã tiệu) đã được
người Việt đọc trại thành mã-tà.
Mã-tà là lính đi dò xét. Mấy bài phóng
sự của báo L'Illustration xác nhận trong hàng ngũ
quân đội Pháp có quân được mộ từ Manille
(ma-ní) tham dự trận đánh Đà Nẵng (1858), có
lính tập người Việt (tirailleur) trong trận
đánh đồn Kì Hoà (Sàigòn, 1859).
Thực dân Pháp cho lính
người bản xứ và lính thuộc địa
của Tây Ban Nha đi dò xét, trinh sát. Mã-tà, Ma-ní là lính
đi tiên phong " đỡ đạn ". Chuyện
hoàn toàn dễ hiểu.
Năm 1861, có lính chiến
đấu mã-tà người Việt Nam. Năm 1896
(tức là 34 năm sau khi triều đình Huế kí hoà
ước nhường cho Pháp 3 tỉnh Biên Hòa, Gia
Định, Định Tường), Huỳnh Tịnh
Của mới nói đến lính canh tuần ma-tà (tiếng
Mã Lai ?). Khoảng 1908-1921, miền Nam lại có thêm lính
ma-tà khác.
Trong bài Dạo bờ
biển một mình, Huỳnh Thúc Kháng kể đời
sống hàng ngày của người tù ngoài Côn Đảo :
" Từ ra ngoài đảo
đã sáu, bảy năm không khi nào ra cửa thành khám
ngục mà được đi một mình, hễ ra
cửa một bước là có ma-tà mang súng đi theo sau.
Đến lúc ra làm việc giấy ở phòng Gác-điêng
sếp thì ra vào trong " banh " có hơi thơ, không ai
dẫn. Song chỉ được đi lại, ra vào
ở kho chứa đồ, phòng gác của Gác-điêng và bóp
lon-ton (...) " (Vương Đình Quang, Thơ văn
Huỳnh Thúc Kháng, Văn Học, 1965, tr. 102).
Tiếng Pháp gọi lính canh tù
là maton. Maton được Việt hoá thành ma-tà.
Đoạn văn còn nhiều từ gốc Pháp khác:
gác-điêng (gardien), sếp (chef), banh (bagne),
gác (garde), bóp (poste), lon-ton (planton).
Mã-tà ở Cần Giuộc (1861) là lính
chiến đấu. Ma-tà ở Sàigòn (1896) là lính canh
tuần. Ma-tà ở Côn Đảo (1908-1921) là lính canh
tù.
Đời ôi nhiều nỗi
bợn nhơ :
Ma tà có chú hay quơ hay quào,
Giận
ai gươm súng phao vào,
Báo
quan nhà nghịch, vây rào xét coi...
(Vương Hồng Sển,
sđd)
Ma-tà của bài thơ đúng là lính
cảnh sát ở Sàigòn, đi khám xét nhà dân chúng. Ma-tà này
dường như có họ hàng với matraque
(chiếc dùi cui) ?
Mã-tà của Nguyễn Đình Chiểu và Ma-tà
của Huỳnh Tịnh Của, là hai nhân vật của hai
thời kì lịch sử khác nhau, cần được
phân biệt rạch ròi.
Bài Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc còn cho thấy Nguyễn Đình
Chiểu là nhà văn rất cập nhật. Ông đã
sớm đưa bòng bong (bâche), bánh mì (pain de mie)
của tiếng Pháp vào văn học Việt Nam.
Nguyễn Dư
(Lyon, 3/2007)
Nguồn: Chim Việt Cành Nam