CHÚT HÀO QUANG ÐÃ MẤT
Trang Thế Hy
Nguời
yêu chuộng cải lương đều biết tăm
tiếng và tai tiếng của Tư Chơi, một tài năng
đa diện đã kết nghĩa
với chai ruợu nhiều hơn là với cuộc
sống.
Một ngẫu nhiên đã đưa nhà văn Trang Thế Hy đến
tạm trú trong nhà Tư Chơi, và nhờ đó mà độc
giả được làm quen với tâm tình và khí tiết
của con nguời nghệ sĩ đã muốn quên đời
trong những cơn tửu nhập. BBT
I
Giữa năm 1959, sau khi bị công an
"vồ" hụt tại vùng Phú Nhuận, tôi vọt ra
núp tạm ở gia đình một nguời bạn có nhà
nghỉ mát cho thuê loại rẻ tiền ở bờ
biển Long Hải. Tại dây tôi cụng trán với khá nhiều
nguời giả dạng làm du khách nghèo mà tôi biết
chắc là những tay "Việt cộng nằm vùng"
bị luật 10/59 săn đuổi kiểu như tôi.
Bạn tôi gốc nguời kháng chiến cũ Tưy không hoạt
động nữa nhưng cái vỏ hợp pháp khá mong manh,
nhìn tôi lắc dầu: "Sớm muộn gì rồi cũng
bể. Bạn bè cùng vào sanh ra tử một thời với
nhau cả, biết làm sao? Thôi thì tới đâu hay tới đó
vậy".
Giữa con
bối rối vì câu đuổi khéo ấy, tôi gặp ở
bãi tắm anh Huỳnh Khắc Tề, một nguời
bạn cùng quê. Biết tình cảnh tôi, anh nói: "Tôi sẽ
điềm chỉ cho chú một chỗ "chém vè" có
thể nói là khá an toàn". "Vùng nào" - tôi hỏi - "Vùng
Chợ Lớn một xóm Tàu phía sau rạp xinê Palace,
truớc mặt là đuờng Trần Hưng Ðạo, sau lưng
là đoạn chót của đường Phan Văn
Trị". "Nhà ai vậy?" - "Nhà
anh Tư". Ảnh chỉ bây giờ nghèo lắm,
cần cho muớn bớt cái gác ọp ẹp của căn
nhà nhỏ''.
Tôi không
giấu được sự mừng rỡ. Anh Tư
của Huỳnh Khắc Tề là nhà soạn Tưồng
kiêm diễn viên sân khấu kiêm bầu gánh của nhiều đoàn
hát nổi tiếng, một nhà cách tân kịch nghệ,
một nghệ sĩ cổ nhạc có ngón đờn độc
đáo, tài danh lừng lẫy một thời: Huỳnh
Thủ Trung tên thuờng dùng là Tư Chơi. Ðối với
nguời viết văn, đó là một nguyên mẫu quý giá
cho nhiều loại nhân vật.
Anh Muời
Tề không để cho tôi phấn khởi lâu:
- Chú đừng nuôi một kỳ
vọng nhỏ nào về chuyện thu luợm chất
liệu cho nghề nghiệp. Anh Tư bây giờ là một
ông già nát ruợu. Vấn đề đặt ra là chú
phải rán chịu đựng ổng chứ không phải
ổng cung cấp gì cho chú đâu. Trong hai muoi bốn
tiếng dồng hồ, ổng tỉnh vài tiếng,
ngủ chừng bốn tiếng
còn muời tám tiếng kia là say, không say mèm cung say ngà ngà.
Ðỡ một cái là ổng
không làm ầm ĩ, không làm phiền nguời lân
cận, chỉ ngồi nhà, thảng hoặc mới đến
một quán cóc gần, ngồi chừng nửa buổi.
Ðỡ một cái nữa là nghe ổng chửi chính phủ
nhà nuớc, nguời tai mắt chính quyền tại chỗ
chỉ nhìn đồng bào cuời như phân bua: "Không
phải ông Tư Chơi nói đâu mà ruợu
nói". Cái bình phong an toàn cho chú là chỗ đó.
Ba hôm sau, khi
tôi đến với anh Tề, chú Tư đang say mèm. Sáng
lại tôi phải tự giới thiệu. Chú Tư nhớ ra cha tôi là ai rất khó khăn.
Nhưng sau dó, tôi phải ngạc nhiên vì một nguời
bạn cùng quê bị chú quên lửng quá lâu được
chú hồi Tưởng lại với một số nét
thật chính xác về diện mạo, tánh tình, giọng nói, giọng cuời
thậm chí một số thói quen khó nhớ. Chú nói :
- Ba mầy rất ghét bọn
xuớng ca vô lại. Vậy mà ổng nói tao đờn đoản
nghe như chim "kêu". Ba
mầy không biết nói chim hót đâu. Ông nói chim "kêu".
Bao nhiêu lời khen tặng văn hoa bóng bẩy của
những nguời hâm mộ tài nghệ tao, tao quên hết.
Vậy mà câu nói quê mùa trật chữ nghia của ba mầy
thì tao nhớ. Ổng khinh bọn xuớng ca vô lại
thiếu nhân cách, nhưng ổng biết nghe tiếng đờn bằng tâm
hồn. Trong trời đất này, nguời đờn nghe
như chim "kêu" không nhiều đâu, nguời
biết nghe tiếng đờn như nghe chim "kêu"
càng ít hơn.
Vậy mà
chỉ hai hôm sau, trong một cơn ngà ngà say, chú Tư lè nhè:
- Vị tình
ông già làm với ổng một ly coi mậy... Mầy nói
mầy là con của ai, tao quên rồi? Tôi đỡ ly ruợu từ bàn
tay run run của chú Tư mà tê điếng trong lòng. Từ
nhiều năm truớc đó, tôi đã bắt đầu
tìm hưng phấn giả tạo bằng men ruợu. Nghe
chú Tư hỏi tôi có thấy mình bị ruợu ran đe, nhưng ít thôi. Tôi xót xa vô
hạn cho những gì dã bị ruợu bôi xóa trong tâm hồn
bậc nghệ si tài danh đang
tàn tạ này.
Chỉ trong
vòng vài tuần, tôi xác định tóm tắt được
cách chú Tư nhìn cuộc sống qua men ruợu. "Hiện
tại là một cục bầy nhầy. Quá khứ là cái gì
thây kệ nó, nhưng làm ơn đừng gợi lại.
Còn tương lai hả? Ai muốn bàn
luận với tao về tương
lai, truớc hết phải đồng ý với tao
rằng tương lai là hư vô". Ở
giai đoạn bản lề giữa ngà ngà say và say mèm, chú Tư
luôn luôn lặp lại gần giống y thư vậy. Và có
một lần nọ, lúc tỉnh, chú mời tôi cùng chú
luận bàn về cách nhìn đời của chú trong cơn say.
- Biểu
mầy chấp nhận tương
lai là hư vô mầy không chịu đâu... đừng cãi,
tao đi guốc trong bụng
mầy, con ạ! Mầy không thèm nhìn những chân trời
gần. Mầy đang mê cái chân trời rất xa của
mầy không biết chừng nào mầy mới thấy nhưng
mầy muốn thấy nó màu hồng. Giả tỉ nhu nó là
ảo tưởng thì cũng là ảo tưởng đẹp, tao vẫn hoan
nghinh. Về quá khứ, mầy mới có ba muoi mấy tưổi,
cái quá khứ còn quá ngắn đó chua cho phép mầy phát
biểu về quá khứ. Còn lại cái hiện tại. Khi
tao nói cái hiện tại là một cục bầy nhầy,
mầy khoái lắm chứ gì? Khai thiệt đi con.
Luận bàn
với chú Tư về chuyện này nguy hiểm quá, tôi đành
làm thinh nhưng rất khâm phục cái hình tượng
chú Tư dùng để nói về cái hiện tại của
thành phố Sài Gòn năm 1959 nầy. Ðúng là một cục
bầy nhầy.
II
Chưa ầy
một năm sau, tôi lại phải ra đi. Trong tâm trạng rối bời vì
mặc cảm bất an bị săn đuổi vẫn nổi bật ba sự
kiện mà tôi không cần ghi để
nhớ vì biết rằng tôi sẽ không bao giờ quên
nó.
Ðầu tiên là
chuyện chú Tư từ chối không nhận hai món quà
của một tay đờn tranh từ Cần Giuộc mang lên: một chai ruợu Whisky
Haig và một cây đờn đoản,
niềng cẩn ốc xà cừ. Chú Tư không nói rõ lý do vì sao chú từ chối
nhưng những lời cám ơn rất chân thực thì hàm ý mời
khách ra về ngay. Một lát
sau, thím Tư cầm về một xị ruợu
dế.
- Bà để đó cho
tôi. Tôi phải tỉnh để nói với thằng Hai
này vài câu mới được. Hai à! Nếu như tay đờn tranh này chỉ tặng tao chai
ruợu thôi, thì chẳng những tao nhận mà còn biểu
nó lâu lâu nhớ tao, cứ đến
tặng ruợu tao như vậy. Nhưng kèm theo ruợu có cây đờn đoản
và những lời nài nỉ biểu
tao đờn cho nó nghe thì tao không nhận.
Thằng nầy chưa từng nghe tao đờn như
ba mầy đâu nhưng nó
nghe tiếng đồn. Tao giận nó vì nó là một
nghệ sĩ mà lại mưu toan
mua chuộc một nghệ sĩ
bằng ruợu. Thằng già nát ruợu
nầy bán mình nhiều lắm rồi
Hai à! Nhiều
lúc bán mình rất rẻ và rất dễ nữa kia, nhưng chàng nghệ si tài hoa đờn đoản
nghe như chim "kêu" không bán mình với bất cứ giá nào.
Tao vừa giận mà cũng vừa thương nó nữa. Giá tỉ như nó dụ được
tao đờn, thì nó chỉ nghe tiếng cóc nhảy
trên rơm mà thôi, và nó sẽ ra về thất
vọng. Chi bằng cứ để
mơ tương tiếng đờn nghe như chim
"kêu" của tao có phải hay hơn
không? Tự hủy hoại một điều
mơ tưởng đẹp của mình là ngu, ngu một cách đáng thương,
mầy nghe chưa Hai?
Ngừng một lát, chú Tư
tiếp:
- Mầy là thằng viết văn... đừng
chối, tao biết hết... Nếu như mầy nổi tiếng, tao nói thí
tỉ thôi, chừng nào mầy mới dám nổi tiếng,
một cái tên được nhắc nhở thường mầy còn không dám có nữa
kia... Mầy là một con cá đang
lội trong nuớc đục... đừng sợ, tao đang tỉnh, tao không hại mầy đâu. Một thằng đầu trâu mặt ngựa nào đi ngang qua nghe tao nói nó cũng cho là ruợu nói chớ không phải
ông Tư Chơi nói.
Nếu như mầy nổi tiếng - biết dâu
chừng mậy, cuộc đời
ác nghiệt nầy lâu lâu nó cũng chơi cái trò tặng phẩm bất ngờ
- nếu như con nổi tiếng, con phải nghe lời
chú Tư dặn nghe con, là khi nào biết mình viết hết
được rồi thì phải đi chỗ khác chơi, đừng bẹo
hình bẹo dạng ở chỗ truờng văn trận bút và tuyệt
đối đừng
để những nguời hâm mộ mình đọc
những câu lếu láo, nhớ chua? Thôi tao nhậu,
xị ruợu của tôi đâu
rồi bà?
Rồi chú Tư vừa rót ruợu ra
ly vừa ngâm:
- Nuớc
giếng trong con cá nó vẫy vùng... còn lâu, còn rất lâu
nuớc mới trong con ơi!
Sự kiện thứ hai: Một tác
giả kịch bản cải lương
còn trẻ, có chút tài năng nhưng chưa có tên đến
nhờ chú Tư cùng đứng tên như đồng tác giả của
một vở tuồng mà anh ta đảm
bảo là không đến nỗi nào làm hại thanh danh chú
Tư. Anh chàng nầy được chú Tư
mời ra về ít nhã nhặn hơn:
"Vì không chịu làm bạc giả mà tôi phải nghèo
cực đến như vầy. Bây giờ chú muốn tôi giúp đỡ chú làm bạc giả hay sao? Chú
cầm quyển tuồng của chú về đi".
Sự kiện thứ ba: Một biên tập
viên chủ chốt của một tờ tuần báo không ăn
khách, đến chơi
gợi ý rất khéo để chú Tư tâm sự ít
nhiều gì đó về những mối tình thời thanh
niên và trung niên của chú Tư có dính dấp đến ba nữ nghệ sĩ, diễn viên sân khấu cỡ
thuợng thặng đã giải nghệ. Người này nhỏ tuổi hơn chú Tư
không nhiều, thỉnh thoảng có giúp đỡ chú Tư về tiền bạc.
Chú Tư đoán được
ý đồ, hỏi chận đầu trước.
Ông ta nhột quá phải khai thiệt nhưng còn chống đỡ:
"Tôi không dám khoe tài đâu nhưng tôi
biết cách viết anh Tư à! Khoa nịnh đầm tôi cũng
khá. Tôi chỉ tôn nguời ta
lên thôi chứ không bao giờ xúc phạm". Chú Tư
ôn tồn nói:
- Ba ngôi sao không còn hào quang kia, gì thì gì
vẫn còn hình dáng của những ngôi sao. Còn tôi bây giờ
là một cái khối nát vụn chẳng còn chút hình thù gì rõ
nét của một vì sao rụng. Họ nói về tôi là ban
phát cho tôi cái gì đó. Tôi nói về họ là xin xỏ vay
muợn ở họ cái gì đó.
Tôi không mặc cảm dâu. Tôi
nói về cách nhìn thông thường của nguời ngoài
cuộc chớ không nói về cách nhìn của tôi. Những
nguời đó có thể vì háo danh và mê muội
truớc sức huyễn hoặc của chữ nghĩa khéo dùng mà không thấy mình bị xúc
phạm. Nhưng tôi thì không muốn làm nguời
xúc phạm... Tưổi già
của tôi lạnh lẽo thật nhưng tôi
không muốn suởi ấm bằng hào quang của
nguời khác.
III
1959-1989
Ba mươi
năm sau khi chú Tư Chơi tự ví mình với cái khối nát
vụn không còn hình thù gì rõ nét của một vì sao rụng,
tôi gặp trong tiểu thuyết mấy nhân vật bình
thuờng bất hạnh mà nhà văn
tạo ra họ đã ví với những "mảnh
vỡ của một ngôi sao buồn". Tôi thấy sự
so sánh ví von của tác giả gốc người phương
Ðông này dễ chấp nhận đối
với khả năng tưởng tượng của tôi hơn và xin muợn
cái hình tượng ấy của ông để tâm sự với bạn dọc
rằng một số lời nói của nhà nghệ sĩ tài danh Tư Chơi,
lẫn lộn trong bao nhiêu lời lảm nhảm của
một ông già nát ruợu, đã được tôi cảm thụ như mấy lời dạy
bảo quí giá về nhân cách của một người cầm bút. Còn những tia sáng đạo lý lóe lên yếu ớt trong đêm đen của chủ nghĩa thực dân mới ấy có đáng đuợc
gọi là "chút hào quang từ
mảnh vỡ của một ngôi sao buồn" hay
không, thì chuyện đó còn tùy ở từng nguời bạn
dọc.
(1-1989)