Truyền thống sơn
mài B́nh Dương
THÁI KIM ĐIỀN
Nghề
thủ công truyền thống ở Việt Nam đă
xuất hiện, tồn tại và phát triển rất lâu
đời. Khá nhiều nghề thủ công của ta đă
trở nên nổi tiếng, nhất là các nghề thủ
công mỹ nghệ. Nó có ư nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xă hội ở
nông thôn theo chiều hướng phát triển của nhu
cầu thị hiếu thẩm mỹ trên thế giới.
Ngành nghề truyền thống và sản phẩm của nó
tạo nên bản sắc của mỗi nền kinh tế.
Không nền kinh tế nào không có bản sắc riêng. Giữ
ǵn, kế thừa, nâng cao phẩm chất về kỹ thuật và mỹ
thuật cho ngành nghề truyền thống có ư nghĩa
cả về kinh tế và văn hóa. Do những ảnh
hưởng về kinh tế, xă hội, tâm lư, tập quán
và những điều kiện tự nhiên, ở nông thôn
Việt Nam đă tồn tại những làng nghề
truyền thống với bề dày lịch sử hàng
trăm năm và với nhiều loại sản phẩm
nổi tiếng bởi tính độc đáo và độ
tinh xảo cao. Trong đó sơn mài
từ lâu đă được xem như một trong
những truyền thống tiêu biểu đậm nét
văn hóa Việt Nam được giới mỹ
thuật thế giới biết đến.
Nghề
thủ công nói chung, thủ công mỹ nghệ nói riêng
được tiến hành chủ yếu tại các làng
nghề. Lịch sử phát triển nghề và làng nghề
cổ truyền luôn gắn liền với lịch sử
phát triển kinh tế, văn hóa, xă hội và khoa học
kỹ thuật nước ta. Những sản phẩm
thủ công mỹ nghệ không chỉ là sản phẩm hàng
hóa thuần túy - mang tính thực dụng, thỏa măn nhu
cầu sinh hoạt b́nh thường, hàng ngày của nhân dân
mà chúng c̣n là những tác phẩm nghệ thuật
độc đáo, mang bản sắc văn hóa dân tộc.
Trên các sản phẩm thủ công, nhất là sản
phẩm trong quá khứ (như đồ đồng,
đồ đá, đồ gốm, đồ thêu, tranh dân
gian... hay đ́nh chùa, cung điện, lăng tẩm, thành
tŕ...) thường chứa đựng những quan
niệm thẩm mỹ, trưởng, đặc
điểm nhân văn, tŕnh độ khoa học và kỹ
thuật rất độc đáo của dân tộc
Việt Nam Nhiều sản phẩm c̣n mang dấu ấn
thời đại đặc điểm làng nghề, phong
cách nghệ nhân khá đậm nét. Chính tính đặc thù
ấy đă tạo nên sự hấp dẫn, cuốn hút
của đồ thủ công mỹ nghệ với khách hàng
trong nước và quốc tế. Các sản phẩm ấy
do nhiều thế hệ nghệ nhân và thợ thủ công
lành nghề ở các làng nghề làm ra. Làng nghề bảo
lưu, phát triển tinh hoa văn hóa nghề thủ công
của dân tộc trong suốt tiến tŕnh lịch sử.
Ngay
từ đầu thế kỷ, năm 1901, trường Mỹ nghệ
Thủ Dầu Một được thành
lập.
Mục
tiêu xa xôi là dựng chiêu bài ''Khai hóa'', tuyên truyền che
giấu âm mưu xâm lược. Mục tiêu gần gũi,
thiết thực là sản xuất, cung cấp tại
chỗ cho bọn cầm quyền những hàng tiêu dùng và
trang trí nội thất có giá trị thẩm mỹ cao.
Trước đây, sau khi đă chiếm đóng toàn bộ
lănh thổ nước ta, những vật dụng trang trí
cho nhà cửa, dinh thự của Pháp như bàn, ghế,
tủ, giường... và tất cả mọi thứ
đều chở qua từ Pháp hay từ những thành
phố thuộc Pháp ở An Độ. Đường sá
xa xôi, vận chuyển như vậy thực hết
sức tốn kém, đắt đỏ. Chúng ta c̣n nhớ
khi Đô đốc Bonard trên đường đi qua
nhậm chức Thống đốc Nam Kỳ (1861-1863)
cũng đă ghé Tân Gia Ba, mua nguyên cả một sườn
nhà gỗ để lắp ráp và dựng lại làm dinh
của ḿnh. Về sau này, khi tiếp xúc với nhiều
người Việt, người Pháp mới thấy
rằng việc chở vật dụng từ Pháp sang là vô
ích, không hợp lư. Nghề thủ công của người
Việt rất tinh xảo, nguyên liệu để chế
ra đồ dùng không phải là thiếu, mà c̣n có thể nói
rất quư nữa là khác. Trong cuộc triển lăm mỹ
thuật Việt Nam được tổ chức năm
1887 ở Hà Nội, Toàn quyền Paul Bert đến khai
mạc, những hàng mỹ nghệ trưng bày đă gây một
sự chú ư và hấp dẫn hết sức đặc
biệt, từ những hàng thảm dệt, thêu thùa, trang
sức bằng đá quư và vàng bạc, những đồ
dùng bằng đồng thau và kim loại khác cho đến
các thứ đồ gốm, sành sứ, đất nung,
những thứ đồ mộc chạm trổ, sơn
son thếp vàng, cẩn xà cừ, những đồ
thờ, tượng thờ, hoành phi, liễn đối...
hết sức tinh xảo, biểu hiện một nền
nghệ thuật đặc sắc. Vấn đề
đớ càng được xác lập nhiều hơn sau
hàng chục cuộc điền dă nghệ thuật
được tiến hành khắp nơi trên toàn cơi
đất nước ta.
Tại
miền Nam, Pháp chọn Thủ Dầu Một làm nơi xây
dựng một trường mỹ thuật ứng
dụng là từ nền tảng đó. Một nguyên nhân khác
nữa: Thủ Dầu Một là một nơi có tiếng
tăm từ nhiều đời, ngay từ thời kỳ
đầu của triều Nguyễn với nghề
mộc và chạm trổ rất tinh vi, nghề làm sơn ta
và khảm xà cừ khá tuyệt xảo.
Trường
bắt đầu mở cửa th́ đă có 40 học viên
ghi tên vào học tập, làm việc, trong số này có
nhiều người đă là thợ giỏi từ
trước. Chương
tŕnh gồm có 4 môn: Gỗ (Ébénisterie), điêu khắc
(Sculpture), khảm xà cừ (lncrustation) và đúc đồng
(Fonderie de Bronze) nhưng trong thực tế th́ chỉ chú
trọng đến chạm gỗ và sử dụng sơn
ta (lacquer) để sơn thếp. Dưới sự chi phối
của viên hiệu trưởng
người Pháp đầu tiên, các sản phẩm thực
hiện đều dựa vào tiêu chuẩn là vật
dụng trang trí được bày tại Bảo tàng
Khải Định và cung điện triều đ́nh
Huế. Năm 1923, viên hiệu trưởng mới
được bổ nhiệm đến, các hiệu
trưởng kế tục của trường đều
là người Pháp. Phần lớn đều chú trọng
nhiều hơn trong việc đào tạo các nghệ sĩ
và thợ cả, ngoài nghề mộc c̣n triển khai thêm
về điêu khắc trên gỗ và làm sơn (laquage).
Nhiều thứ gỗ quư sản sinh từ rừng Đông
Nam bộ và Nam Trung bộ được đưa vào
đây như cẩm lai, trắc, gơ, huê mộc (bois de rose),
nu, giáng hương... để chế biến thành
biết bao nhiêu đồ trang trí tuyệt đẹp.
Điểm
đặc biệt hơn cả trong giai đoạn đào
tạo này, lớp nghệ sĩ đầu tiên ở
đất Thủ có tay nghề giỏi và có tri thức
về văn hóa thẩm mỹ đă được h́nh
thành, trở thành ṇng cốt cho giai đoạn phát triển
sau này. Hầu hết các học sinh tốt nghiệp
tại trường đều trở thành thợ giỏi,
nhà giáo hay những họa sĩ, nghệ sĩ nổi
tiếng như: thợ
Phèn, thợ Dựa, giáo Đỏ, giáo Đậu, Châu
Văn Trí, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Thành Lễ,
Nguyễn Văn Nhân, Nguyễn Văn Yến...
Do biết khéo léo kết hợp tay nghề truyền
thống mà cha ông để lại với tinh hoa trong
nghệ thuật châu ÂU (Pháp), thế hệ thợ thủ
được đào tạo đầu tiên đă làm
vẻ vang cho nền mỹ thuật B́nh Dương xưa
khắp Nam kỳ lục tỉnh.
Đến
năm 1964, tiếp nhận xu thế văn hóa mỹ
thuật và chương tŕnh đào tạo của Mỹ,
trường đă đổi tên chính thức thành trường Kỹ thuật B́nh
Dương. Chương tŕnh đào tạo
của trường cũng có nhiều biến chuyển,
ngoài những ngành nghề trước th́ trường c̣n
đào tạo thêm các bộ môn đồ họa công
thương nghiệp, kỹ thuật cơ khí và trường
c̣n dạy thêm những bộ môn văn hóa phổ thông. Giai
đoạn này, chương tŕnh giảng dạy các bộ
môn nghề được việt hóa hoàn toàn, giáo viên phụ
trách là người Việt, hiệu trưởng người
Việt đầu tiên là ông Nguyễn Văn Long. Thời
gian này cũng có rất nhiều học sinh của
trường tốt nghiệp và thành danh. Về ngành
nghề sơn th́ khỏi cần phải nói nhiều, là
một nghề cổ truyền của nước ta
từ xa xưa lắm, vào thế kỷ thứ XV, XVI
đă đạt đến một tŕnh độ điêu
luyện, hết sức phong phú. Nơi phát triển
mạnh nhất là Thủ Dầu Một (B́nh Dương),
chính nơi đây có thể xem là cái nôi của nghệ thuật
sơn ta, sau này là sơn mài của phía Nam Trước kia,
các màu sơn then (màu đen), màu đỏ son, nâu cánh gián,
thêm vào đấy là vàng và bạc là các màu chủ yếu
thường ngày được sử dụng để
nâng cao chất lượng mỹ thuật các đồ
vật thường dùng trong nhà như bàn, ghế, tủ
chạm, tủ chè, sập gụ. Hoặc để góp
phần nâng cao cái đẹp trang trí ở các nơi thờ
phượng công cộng, sơn son thếp vàng hoặc làm
đen bóng các kiệu thờ, cửa vơng, bao lam ở chùa
chiền, sơn phủ và tô vẽ các tượng tôn giáo
hay khung tranh. Với đóng góp của thời gian càng làm cho
nó kỳ lạ hơn, là đôi nét điển h́nh của
nghề sơn cổ Việt Nam.
Khoảng
năm 1930-1932, các họa sĩ trẻ của trường
Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương có
nhiều thử nghiệm mới về sơn ta, không
chỉ sử dụng kỹ thuật đơn giản
cổ truyền nữa, những Nguyễn Gia trí, Trần Văn
Cẩn, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Khang,
Phạm Hậu... mà c̣n
đưa sơn ta vào hội họa, nâng một chất
liệu quư trước đây chỉ đứng ngang
mức mỹ nghệ, nay bay bổng lên, chiếm lĩnh
được một vị trí đáng kể trong
đời sống mỹ thuật, trong nước cũng
như trên thế giới. Vài người gốc miền
Nam tốt nghiệp từ trường Mỹ thuật Hà
Nội như họa sĩ Nguyễn Văn Long đă mang
về phổ biến những kết quả mới này
ở trường Mỹ nghệ Thủ Dầu Một,
cộng thêm vào đấy là phương pháp làm sơn
khắc (coromandel) có giảng dạy tại nhà
trường, các học viên được trang bị cách
nh́n và kỹ thuật mới làm cho ngành sơn mài mỗi
ngày càng hoàn thiện, lư thú và hấp dẫn. Ngành sơn mài
phát triển rộng, nhân dân thị xă Thủ Dầu
Một và các vùng lân cận hầu hết chuyên sống
bằng nghề sơn mài.
Cuối
thế kỷ XIX đến năm 1945, chính quyền Pháp
đông Dương nắm giữvai tṛ chủ đạo
phát triển sản xuất hàng thủ công ở Việt
Nam. Người Pháp đến Việt Nam đă đem theo
nền sản xuất cơ khí từ chính quốc họ.
Đối với nền sản xuất thủ công lâu
đời của nhân dân Việt nam, người Pháp
từng bước có các chủ trương và biện pháp
đáng chú ư: 1935, mở đầu bằng cuộc
điều tra để t́m phương án phát triển
tiểu thủ công nghiệp ở Bắc kỳ do
Thống sứ Bắc kỳ phụ trách. Tổng
đốc Hoàng Trọng Phu đă mở mỹ nghệ
bản xứ ở Hà Đông, khuyến khích mọi nơi
trong tỉnh đẩy mạnh các nghề thủ công,
nhất là làng nghề cổ truyền. Chính quyền và các
nhà kinh doanh bản xứ hiểu rằng, kích thích phát
triển thủ công nghiệp không những chỉ phải
bỏ vốn ít hoặc không cần bỏ vốn mà
lợi nhuận thu được lại rất cao.
Bởi tận dụng được nguồn nhân công
rẻ mạt và tài khéo của người thợ có truyền
thống lâu đời Tưsản thương mại Pháp
muốn tận dụng nguồn lợi từ sản
xuất hàng truyền thống, nhất là làng mỹ
nghệ Việt Nam luôn được thế giới
ưa chuộng và được giá. Ngoài ra, các sản
phẩm này đáp ứrlg kịp thời và tại chỗ
cho nhu cầu tiêu dùng của thuộc địa, mà
nước Từ những hàng mỹ nghệ gia dụng
nhỏ đă phát triển ngày càng lớn hơn, sản
xuất được nhiều mặt hàng có giá trị
kinh tế cao nhưtủ, bàn, sa-lông, b́nh phong, các loại
tranh trang trí, gây được sự hấp dẫn
lớn ở nhiều nơi, xuất khẩu qua các
nước Tây Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Mỹ chiếm
được nhiều huy chương vàng tại các
hội chợquốc tế. Thành công khá lớn của
xưởng mỹ nghệ Thanh Lễ trước đây
là một chứng cứ điển h́nh, tuy nằm ngay
tại trung tâm Sài G̣n nhưng thực chất vẫn là
đặt căn cứ trên vùng Thủ Dầu Một, các
mặt hàng hầu hết đều do nghệ sĩ
sơn mài của trường Mỹ nghệ Thủ
Dầu Một đảm trách, hoặc nếu không th́
cũng là do những người thợ ít nhiều có liên
hệ hay nằm trong ảnh hưởng của
trường này. Với đà phát triển đó, thế
hệ những nghệ sĩ sơn mài tài hoa, đam mê,
năng nổ, đă đưa nghệ thuật sơn mài
đến những vinh quang cao nhất của một phong
cách nghệ thuật riêng, rất bí ẩn, kỳ diệu,
sâu thăm thẳm, tưởng là phi hiện thực
nhưng lại hoàn toàn gần gũi với đời
sống con người, phản ánh hiện thực với
quy luật chắt lọc tinh túy riêng của nó. Làng sơn
mài B́nh Dương cũng non trẻ như miền
đất phương Nam, cũng phóng khoáng và mới
lạ. Với nghệ thuật sơn mài truyền
thống, kết hợp với các loại nguyên liệu
sơn mài được nhậptừNhật Bản và
Trung Quốc, làm cho sơn mài B́nh Dương có nhiều dáng
dấp mới lạ hấp dẫn màu sắc hiện thoát
khỏi màu song vàng truyền thống nhưng vẫn mang
đậm tâm hồn khoáng đạt của người
Việt. Nghề sơn trong lịch sử Việt Nam
như công tŕnh đă đề cập đến là
những di vật độc đáo, quư hiếm, có giá
trị thẩm mỹ, giá trị tinh thần và kết tinh
của những t́m ṭi sáng tạo của ông cha chúng ta hàng
ngh́n năm trước. Những di sản đó c̣n lại
đến ngày nay không nhiều. Chiến tranh và thiên nhiên
đă và đang phá hủy chúng. Đứng
trướcthựctế này, chúng ta cần định
hướng cho nghề sơn, cần bản lưu và phát
triển sơn mài Việt Nam. Đồ sơn ngày nay
với sự có mặt của kỹ thuật sơn mài,
đồ sơn thực sự là một trong những
mặt hàng thương mại có giá trị. Định
hướng phát triển sơn mài theo hướng này
nhất định có nhiều triển vọng, nhất là
khi Việt Nam đă bước vào thời kỳ mở
cửa. Có lẽ v́ xuất phát từyêu cầu chung là
phục vụ cho con người nên cả hai tính thẩm
mỹ và thực dụng của thế giới đồ
vật luôn gắn bó mật thiết với nhau, nhu cầu
này chi phối và làm tiền đề cho nhu cầu kia, nhu
cầu kia, lại góp phần bổ sung cho nhu cầu này.
Nhưng đối với người xưa th́ nhu cầu
thực dụng vẫn là mục tiêu thiết yếu và
được ưu tiên nhất.
Chính
v́ vậy trong quá tŕnh sáng tạo và cải tiến
đồ vật nếu hai nhu cầu này có sự
đối lập nhau, mà thực t́nh trường hợp
này rất hiếm, th́ bao giờ nhu cầu thẩm mỹ
cũng phải nhượng bộ nhu cầu thực
dụng.
Một
điểm khác cũng cần lưu tới, đó là công
nghiệp sơn đang đ̣i hỏi sự phát triển
toàn diện về trồng sơn, chế biến nhựa
sơn, phục vụ cho công nghiệp nhẹ ở
địa phương cũng như trong xuất khẩu
mặt hàng này. Trong tương lai, với định
hướng chiến lược của nền kinh tế
mới, chắc chắn nghề sơn sẽ được
chú trọng hơn trong nhận thức cũng như trong
đầu tư kỹ thuật. Nghề sơn chắc
chắn sẽ được sử dụng rộng răi
hơn trong nhiều lĩnh vực: hàng không, tàu thuyền,
cầu cống, các kiến trúc gỗ, cách điện,
chịu nước, chịu nhiệt, chịu ẩm.
Nhưng việc sử dụng đồ sơn trong phát triển
đồ dùng hàng ngày và đặc biệt là việc
sản xuất thủ công mỹ nghệ chắc chắn
sẽ được chú trọng và đẩy mạnh
hơn. Để nghề sơn Việt Nam thực sự
có những đóng góp nhiều hơn nữa vào việc
phục vụ đời sống con người, chúng tôi
có một vài kiến nghị dưới đây:
Di
vật mang phong cách nghệ thuật cao hiện bảo
lưu trong các đ́nh, chùa, đền, miếu. Phải xem
chúng là những di sản nghệ thuật phục vụ
sự thưởng thức cái đẹp của nhân dân lao
động và khách du lịch: Những di vật này c̣n là
cơ sở và bằng chứng khách quan giúp cho việc
nghiên cứu đồ sơn để phát huy và kế
thừa.
Cần
mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật
hiện đại và đầu tư thích đáng cho
nghề sơn Việt Nam. Trước hết, cần có
kế hoạch hợp lư cho việc trồng cây công
nghiệp sơn, cải tiến phương pháp khai thác và
chế biến nhựa sơn, đầu tư thích
đáng cho việc sản xuất đồ sơn, chú
trọng đồ sơn gia dụng và đồ sơn
mỹ nghệ xuất khẩu.
Tóm
lại, có thể khẳng định với bề dày
truyền thống và lịch sử phát triển hàng mấy
trăm năm, nghề sơn mài ở đất B́nh
Dương là vốn quư về mỹ thuật, thể
hiện bản sắc văn hóa địa phương. Nó
kế thừa nghề sơn truyền thống của dân
tộc, phát huy đến đỉnh cao nghệ thuật,
tiếp cận với các xu thế mỹ thuật hiện
đại. Nghề sơn mài B́nh Dương đă tồn
tại và truyền từ đời này qua đời khác
bằng bàn tay, khối óc và tâm huyết của biết bao
thế hệ, nó đă để lại trong đời
biết bao sản phẩm, thực sự là những tác
phẩm có giá trị nghệ thuật lâu bền, góp mặt
làm đẹp cho đời. Nghề sơn mài B́nh
Dương đă ghi dấu ấn sâu sắc trong lịch
sử phát triển kinh tế - văn hóa trên một vùng
đất, xứng đáng với niềm thào của
địa phương, của đất nước.
Lớp lớp họa sĩ, nghệ nhân sơn mài B́nh
Dương đă gắn bó tri thức sáng tạo nghệ
thuật qua từng giai đoạn lịch sử và đem
lại cái đẹp mỹ thuật với mọi
người, xứng đáng được ghi nhớ, măi
măi.
THÁI KIM ĐIỀN
(Trường Mỹ
thuật B́nh Dương)