Nghệ thuật Sân Khấu Cải Lương

80 năm… những chặng đường

 

Soạn giả Nguyễn Phương

 

Sân khấu là một loại hình nghệ thuật của nhièu ngành nghệ thuật khác tổng hợp như văn, thơ, nhạc, ca múa, kịch, kiến trúc, ánh sáng, …nội dung các vở diễn có triết học, mỹ học, tâm lý học, xã hội học, có cả những vấn đề thuộc về tôn giáo, lịch sử, chính trị, đạo đức, dân tộc… và đặc biệt sản phẩm của sân khấu thể hiện được tình cảm con người như buồn, vui, thương, ghét, hận, có cái cười, cái khóc, cái sống, cái chết… có quá khứ, hiện tại và tương lai.

Sân khấu là một loại hình kỳ diệu, một loại hình duy nhứt của nghệ thuật mà con người là phương tiện thể hiện sáng tạo, do đó sân khấu không thể không có diễn viên. Nhân vật trong kịch bản được sống lại trên sân khấu qua tài năng của diễn viên; người diễn viên góp phần nâng cao kỷ thuật sân khấu khiến cho hình thức sân khấu thêm đa dạng, thêm nhiều khả năng thể hiện sự tái tạo cuộc sống và tâm lý của mọi tầng lớp nhân vật trong xã hội.

Cuộc sống phong phú bao nhiêu thì sân khấu đa dạng bấy nhiêu. Sân khấu có nhiều hình thức thể hiện như Tuồng, Chèo, Hát Bội, Cải Lương, Hát Bài Chòi, Kịch Nói, Kịch Câm…

Mỗi một loại hình nghệ thuật như Tuồng, Chèo, Hát Bội, Cải Lương, Kịch… đều có một chiều dài lịch sử phong phú và đa dạng, có nhiều đặc trưng nghệ thuật tinh túy khác nhau, cần phải có một sự nghiên cứu sâu sắc, sưu tầm thật nhiều tài liệu và phải trực tiếp được xem các nghệ sĩ tài danh ca, diễn những danh phẩm liên quan tới loại hình nghệ thuật đó thì mới có thể hiểu được.

Người viết xin mời quí đọc giả cùng đi du ngoạn trên những chặng đường 80 năm của nghệ thuật sân khấu cải lương.

 

80 năm, những chặng đường của nghệ thuật sân khấu cải lương…  

Như đã trình bày ở trên, nghệ thuật sân khấu là một nghệ thuật tổng hợp nhiều ngành nghệ thuật khác nhau nhưng diễn viên mới là chủ thể sáng tạo của nghệ thuật sân khấu. Do đó những ngành nghề khác như hội họa, dàn cảnh, trang trí, ánh sáng … đều có phận sự hổ trợ cho nghệ thuật biểu diễn của diễn viên, nếu không thì tự thân của các ngành nghệ thuật đó sẽ không có ý nghĩa gì trong cái không gian của sân khấu.

Theo dõi những chặng đường của nghệ thuật sân khấu cải lương là theo dõi sự phát triển của nghệ thuật ca và diễn của người diễn viên thông qua các soạn phẩm tuồng cải lương và công việc dàn dựng của đạo diễn.

Đặc trưng của nghệ thuật sân khấu cải lương là ca cổ nhạc và diễn xuất.  Nếu diễn một vở tuồng cải lương mà không có ca những bài bản cổ nhạc thì đó là một vở kịch nói chớ không phải cải lương. Ngược lại chỉ có ca cổ nhạc mà không có diễn xuất thì người ta sẽ hiểu đó là đờn ca tài tử chớ không phải hát cải lương.

 

Đàn Ca Tài Tử : Buổi Sơ Khai của Nghệ Thuật Sân Khấu Cải Lương.

Tưởng cũng cần nhắc qua những ngày mới chào đời của nghệ thuật sân khấu cải lương.

Hồi năm 1967, Hội Nghệ Sĩ Ái Hữu Tương Tế, trụ sở số 133 đường Cô Bắc, Saigon có tổ chức hội thảo về đề tài : « Kỷ niệm 50 năm sân khấu cải lương ». Tham dự buỗi hội thảo có các ông : nhà học giả kiêm khảo cỗ Vương Hồng Sễn, cụ Á Nam Trần Tuấn Khải, ông Thanh Trung Trần Văn Khải, nhà nghiên cứu hát bội Đỗ Văn Rỡ, các ký giả kịch trường như các ông Trần Tấn Quốc( sáng lập viên Giải thưởng Thanh Tâm, tặng huy chương vàng cho những diễn viên nam, nữ ca, diễn hay nhứt trong năm ), các ký giả Hoài Ngọc, Nguyễn Ang Ca, Tô Yến Châu, Phùng Mậu, Lê Hiền, Phong Vân, Ngọc Linh, Hồng Sơn các soạn giả cải lương của các đoàn hát đang diễn ở Saigon, Chợlớn và Gia Định, và các nghệ sĩ tài danh Năm Châu, Phùng Há, Ba Vân, Duy Lân, Ba Thâu, Năm Thiên, Hai Nữ, Kim Cúc, Kim Chưởng, Minh Tơ, Thành Tôn, Chín Viễn,Tám Vân, Thành Được, Hữu Phước, Việt Hùng, Ngọc Nuôi, Hoàng Giang, Thanh Nga, Bích Sơn, Ngọc Hương, Kim Giác, Kim Hoàng, Như Mai… Ban thơ ký đoàn là Thu An, Nguyễn Phương, Ngọc Linh, Kiên Giang, Ngọc Văn.

Soạn giả Duy Lân, kiêm giáo sư kịch nghệ trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon, soạn thảo và trình bày bản tham luận về «  Lịch Sử 50 năm của sân khấu cải lương »( 1917 – 1967 ). Bản tham luận đó được toàn thể cử tọa buỗi Hội Thảo tán thành.

Theo Duy Lân, sân khấu cải lương đã được hình thành như sau :

- Năm 1910, ở Mỹtho có Ban đờn ca tài tử của ông Nguyễn Tống Triều hay Tư Triều ( đờn kìm), Chín Quắn( đờn độc huyền), Mười Lý( thổi tiêu), Bảy Võ( đờn cò), cô Hai Nhiễu( đờn tranh) và cô Ba Đắc ca. Bài ca được hoan nghinh nhứt là bản Tứ Đại Oán «  Bùi Kiệm - Nguyệt Nga ».

- Năm 1911, ông Trần Chánh Chiếu, chủ của Minh Tân Khách Sạn ở ngang ga xe lửa Mỹtho, mời Ban Tài Tử Tư Triều đến đờn ca ở Minh Tân Khách Sạn nên thu hút được đông đảo khách hàng.

- Chủ rạp chiếu bóng Casino ở sau chợ Mỹtho thấy vậy mới mời Ban đờn ca tài tử nầy trình diễn mỗi tối thứ tư và thứ bảy trước khi chiếu phim.

- Nhà hàng Cữu Long Giang, sau chợ Saigon, đường Espagne( sau được gọi là đường Lê Thánh Tôn) cũng mời Ban đờn ca tài tử Tư Triều đờn ca. Lúc nầy cô Ba Đắc ca bài Tứ Đại Oán Bùi Kiệm - Nguyệt Nga có ra bộ nên khán giả càng ưa thích. Từ đó sanh ra một lối đờn ca tài tử được gọi là Ca Ra Bộ.

- Năm 1916, thầy André Lê Văn Thận, Cò tàu ở Sadec thành lập gánh xiếc có phụ diễn vài màn Ca Ra Bộ. Ông André Thận mời ông Mạnh Tư Trương Duy Toản làm soạn giả viết tuồng cho gánh hát của ông. Tuồng hát thời kỳ nầy chỉ là những bài Ca Ra Bộ được kết nối nhau theo lối kể chuyện. Bài thứ nhứt : Bài Tứ Đại Oán, Bùi Kiệm thi rớt trở về; Bài thứ 2 : Bình Bán Vắn : Bùi Kiệm và Bùi Ông cải nhau về việc thi không đậu. Bài thứ 3 : trở lại bài Tứ đại oán lớp Xang Dài : Bùi Kiệm ghẹo Nguyệt Nga.

- Năm 1917, ông Pierre Châu Văn Tú, chủ rạp hát Thầy Năm Tú sang lại gánh hát của ông André Thận, lập thành gánh hát Thầy Năm Tú, có tranh cảnh, y trang, dàn nhạc cổ và nhạc Tây. Soạn giả Mạnh Tư Trương Duy Toản được mời về viết tuồng cho gánh hát Thầy Năm Tú. Các vở tuồng nỗi tiếng lúc ấy là Hạnh Nguyên Cống Hồ, Trang Tử Cổ Bồn Ca. Gánh hát Thầy Năm Tú diễn thường trực tại rạp hát Thầy Năm Tú ở sau chợ Mỹtho, thứ bảy gánh hát Thầy Năm Tú lên hát ở rạp Eden Saigon. Về sau, thứ bảy và chúa nhựt hát tại rạp Moderne( tức là rạp Long Phụng ở đường Gia Long sau nầy.)

 - Nhóm tài tử mièn Tây ở Bạc Liêu có ông Bầu hát bội tên Bầu An, tục gọi là Phó tổng An, cha của nhạc sĩ Lê Tài Khị mà sau nầy giới nghệ sĩ sân khấu cải lương tôn vinh là Hậu Tổ của Cải Lương. Con của ông Hai Khị là nhạc sĩ Lê Văn Chột( tự Ba Chột) và con rể của ông Hai Khị là nhạc sĩ Trịnh Thiên Tư, là hai nhạc sĩ có công lớn trong việc ghi chép lại các bài bản cổ nhạc giúp cho việc truyền dạy cổ nhạc dễ dàng và có nề nếp quy củ hơn. Ông Trịnh Thiên Tư lại sáng tác các bài ca cổ nhạc để diễn giải lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến lịch sử Việt Nam cận đại.

- Môn đệ của nhạc sư Lê văn Chột( con của  Hậu Tổ Nhạc Khị) có ông Cao Văn Lầu, cha đẻ của bài ca Dạ Cổ Hoài Lang, sau nầy là bản vọng cổ. Trong số đệ tử của ông Ba Chột còn có ông Nguyễn Văn Trung ( tức soạn giả Mộng Vân) cha đẻ của các loại tuồng kiếm hiệp La Mã. Ông Mộng Vân sáng tác các bài bản ngắn phổ biến trong sân khấu cải lương như các bài : Sương Chiều, Tú Anh, Phong Ba Đình, Phong Nguyệt, Thủ Phong Nguyệt, Tô Võ, Giang Tô điểu ngữ, Quý Phi Túy Tữu…

- Nhóm đờn ca tài tử miền Đông, đứng đầu là nhạc sư Ba Đợi( Nguyễn Quang Đại), Có các môn đệ như nhạc sĩ Giáo Thinh, Tư Nghi, Cao Huỳnh Cư, Cao Hoài Sang, và các môn đệ như Chín Kỳ, Hai Phát, Tư Huyện, Hai Biểu, Sáu Quý, Bảy Hàm, Hai Khuê, Năm Hưng…

Như đã kể trên, từ Ca Ra Bộ tới Hát Cải Lương, lối hát mới chỉ cần một khoản thời gian bảy năm để tự khẳng định cho mình một phong cách ca diễn mới. Các nhạc sĩ, các ca sĩ trong phong trào đờn ca tài tử ở các địa phương đều tự rèn luyện để trở thành những nhạc sĩ, những diễn viên tiền phong của ngành nghệ thuật sân khấu cải lương.

Ca Ra Bộ thì chủ yếu là ca, người ca sĩ có giọng tốt, lối ca hay, chỉ cần ca thật hay để diễn đạt tình cảm của bài ca, còn điệu bộ thì chỉ là những cử chỉ minh họa theo lời ca.

Hát cải lương thì bài ca là bài hát mang tính sân khấu biểu diễn. Trong Hát Cải Lương, ca và diễn quan trọng như nhau, có trường hợp phải múa, phải có những động tác hình thể để diễn đạt tâm trạng nhân vật mà không cần lời nói; có khi lời nói đối thoại bình thường mà hiệu quả cao hơn ca.

Từ Ca Ra Bộ tới Hát Cải Lương, nghệ thuật sân khấu cải lương đã chịu nhiều ảnh hưởng của Hát Bội và các loại hình nghệ thuật khác như Hí Khúc Trung Quốc, Kịch của nước Anh, nước Pháp.

Hát cải lương, nghệ sĩ nào ca hay thì được gọi là kép ca, đào ca hay kép mùi, đào mùi. Những người không có giọng tốt nhưng diễn hay thì gọi là kép diễn, đào diễn, còn được gọi theo tính cách của nhân vật mà họ thủ diễn như kép độc, đào độc, kép lẳng, hề, lão, mụ…

Từ bước đầu hình thành, sân khấu cải lương đã chia thành hai dòng sân khấu lớn :

- Cải Lương tuồng Tàu còn được gọi là cải lương tuồng cổ.

- Cải lương tuồng Tây, còn được gọi là Cải Lương tuồng hương xa khi hát những tuồng phóng tác theo kịch của Pháp, Anh và Cải Lương tuồng xã hội khi có cốt truyện Việt Nam.

Vai trò của người soạn giả kiêm đạo diễn( hồi xưa gọi là thầy tuồng) có ảnh hưởng quan trọng trong việc định hình cho loại hình nghệ thuật sân khấu theo dòng tuồng Tàu hay tuồng Tây thông qua soạn phẩm sân khấu của mình.

 

1 – Dòng sân khấu cải lương tuồng Tàu :

Năm 1917, ông Mạnh Tư Trương Duy Toản là soạn giả, viết tuồng, dạy ca, dạy hát cho diễn viên của gánh hát Thầy Năm Tú. Ông Trương Duy Toản giỏi về Nho học nên các vở tuồng hát đầu tiên của ông viết là những tuồng viết theo truyện Tàu như Hạnh Nguyên Cống Hồ, Trang Tử Cổ Bồn Ca, Trang Châu Mộng Hồ Điệp…

Năm 1920,  ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, nguyên là thơ ký của hãng rượu Phước Hiệp do ông Vương Thiệu làm chủ. Ông Vương Thiệu trước kia là nghệ sĩ đoàn hát Tiều, giải nghệ để kinh doanh nghề nấu rượu nên trong những cuộc tiệc liên hoan trong nội bộ của hãng rượu Phước Hiệp, ông Vương Thiệu rước gánh hát Tiều( những đồng nghiệp cũ của ông) về hát cho công nhân xem.

Ông Nguyễn Trọng Quyền làm quen với các nghệ sĩ của đoàn hát Tiều, học đờn cò và học hát Tiều vì ông giỏi chữ Nho và biết nói rành tiếng Tiều, tiếng Quảng. Khi thấy gánh hát của Thầy Năm Tú, gánh Nam Đồng Ban của ông Bầu Hai Cu( Mỹtho) thu hút đông đảo khán giả, việc kinh doanh đoàn hát mang nhiều lợi nhuận nên ông Vương Có( con của ông Vương Thiệu) lập ra gánh hát Tập Ích Ban và mời ông Nguyễn Trọng Quyền làm thầy Tuồng.

Ông Nguyễn Trọng Quyền, bút hiệu Mộc Quán, đã sáng tác cho gánh hát Tập Ích Ban những vở tuồng cải lương : Châu Trần Kết Nghĩa, Tây Sương Ký, Thổ Nhận Oan Ương và nhuận sắc tuồng Bội Phu Quả Báo của ông Phạm Công Bình. Từ năm 1923 đến năm 1953, ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền làm soạn giả cho các gánh hát Huỳnh Kỳ của ông Bầu Phước Georges, gánh hát Tái Đồng Ban của ông Bầu Hai Cu, gánh hát Hữu Thành của ông Bầu Nguyễn Bá Phương ở Thốt Nốt, gánh hát Phụng Hảo 3 của ông Bầu Nguyễn Bữu, gánh hát Kỳ Quan của ông Bầu Năm Hý, gánh hát Thái Bình của ông Bầu Tư Thới và gánh hát Phụng Hảo 4 của ông Bầu Châu Văn Sáu( còn được gọi là ông Bầu Nhơn).

Ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền làm soạn giả trong 50 năm, sáng tác được 85 vở tuồng cải lương và 3 truyện thơ, đa số các tuồng đó được nhà in Phạm Văn Thìn xuất bản và được nhiều đoàn hát sử dụng như tuồng Phụng Nghi Đình, Mạnh Lệ Quân Thoát Hài, San Hậu( viết theo tuồng Hát Bội San Hậu), Tây Sương Ký, Tái Sanh Duyên, Vạn Huê Lầu…

Là thầy tuồng khi mà nghệ thuật cải lương mới được khai sanh, ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền là người thầy trực tiếp chỉ dạy ca, dạy hát cho các nghệ sĩ Năm Châu, Phùng Há, Năm Phỉ, Ba Vân, Từ Anh, Bảy Nhiêu, Tư Út, Sáu Trâm, Ngọc Hải,Sáu Ngọc Sương, Tường Vi, Tư Thới, Thanh Tao…Các nghệ sĩ Năm Châu, Bảy Nhiêu, Năm Phỉ… mỗi khi nhắc đến ông Nguyễn Trọng Quyền đều hết lòng cung kính, gọi là minh sư. Các cô Phùng Há, Sáu Trâm, và Ngọc Hải là học trò và là dưỡng nữ của ông Nguyễn Trọng Quyền. Giới nghệ sĩ tiền phong và các nghệ sĩ tài danh các thập niên 1950, 1960, 1970 đều tôn vinh ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền là Hậu Tổ của cải lương.

Ông Nguyễn Trọng Quyền, bút danh Mộc Quán, sanh năm 1876, tại làng Thạnh Hòa, xã Trung Nhứt, quận Thốt Nốt, tỉnh Long Xuyên, con của ông Nguyễn Văn Tường và bà Trương Thị Thạnh. Ông Nguyễn Trọng Quyền bị đứt mạch máu não, trút hơi thở cuối cùng tại nhà thương Châu Đốc, ngày 21 tháng 9 năm 1953 ( Qúy Tỵ ).

Ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền là người khai sanh ra dòng nghệ thuật sân khấu tuồng Tàu. Ông đã viết lời Việt và sửa cách phát âm theo lối Việt của một số bản nhạc của sân khấu hát Tiều, hát Quảng để dùng trong tuồng Tàu do ông sáng tác. Các bài bản đó đến nay trở thành cổ nhạc Việt Nam tuy vẫn còn giữ cái tên của nhạc Tiều hay nhạc Quảng cũ như các bài Ú Liu Ú Xáng, Xang Xừ Líu, Xáng Xáng Lìu, Khốc Hoàng Thiên, Xách Xủi, Tân Xái Phỉ, Bạc Cấm Lùn, Dì Phạn, Mành Bản…

Ông đã sử dụng lối hát ước leệ và tượng trưng của Hát Bội, rút kinh nghiệm của lối Hát Tiều và lối hát của Hý Khúc Trung Quốc( thời Nguyên) để biến chế thành một lối hát tuồng Tàu cho các nghệ sĩ Việt Nam.

Đặc trưng của lối hát tuồng Tàu( phỏng theo lối hát của Hý Khúc Trung Quốc) như sau :

Trong nghệ thuật biểu diễn tuồng Tàu, yếu tố âm nhạc, đặc biệt là các bài ca chiếm địa vị chính yếu. Vì vậy những lời thoại đối đáp giữa các nhân vật không thể tự nhiên như ngôn ngữ ở ngoài đời thường mà phải ngâm nga, nhấn nhá theo tiết tấu và âm điệu nhạc. Người ta gọi ngôn ngữ tuồng kết hợp với âm nhạc như vậy là ngôn ngữ đã được âm nhạc hóa.

Về động tác hình thể thì cũng không phải diễn như ở cuộc sống bình thường mà là phải được nâng lên thành múa, thành vũ đạo. Người trong nghề gọi các động tác được cường điệu, được vũ đạo hóa. Ví dụ từ việc dâng trà, cách phất tay áo, tay vuốt râu, mỗi bước đi… nói chung để biểu lộ cảm xúc của nhân vật thì động tác hình thể phải được cách điệu hóa, được nâng lên thành vũ đạo kết hợp nhuần nhuyễn với cách ca ngâm và hát thay cho những lời đối thoại bình thường.

Trong nghệ thuật hát tuồng Tàu( theo lối hát của Hý Khúc Trung Quốc), một điểm quan trọng không thể thiếu là khi động tác hình thể được ‘’ vũ điệu hóa’’ và lời thoại được ‘’ âm nhạc hóa’’ thì tiết tấu của ca và diễn phải được ‘’ cường điệu hóa’’. Tiếng trống, thanh la và tiếng mỏ đệm theo động tác diễn xuất của diễn viên làm tăng thêm biểu cảm tâm lý nhân vật mà họ thụ diễn, làm tăng thêm kịch tính của lớp diễn đó, đến độ diễn viên chớp mắt, đảo tròng con ngươi, ngón tay run rẩy đều theo nhịp trống điểm. Vì vậy, tiết tấu có một vai trò đặc biệt trong việc biểu diễn hý khúc, trong việc hát tuồng Tàu, tiết tấu kếp hợp chặc chẽ với động tác hát, nói lối, diễn, đánh võ, múa bộ, đồng thời tiết tấu là một thủ pháp thiết yếu dùng để làm tăng thêm kịch tính.

Các gánh hát Tập Ích Ban, Huỳnh Kỳ, Văn Hí Ban, Tiến Hóa, Phụng Hảo, Tam Phụng, Nam Phi, Thái Bình, Nam Phong  đều hát tuồng Tàu và theo phong cách biểu diễn như đã kể. ( 1920 – 1950).

Về sau các đoàn hát Thanh Bình – Kim Mai, Minh Tơ, Huỳnh Long, Khánh Hồng… hát những vở tuồng của ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, tuy có cải sửa đôi chút hoặc giản lược những bài bản của Tàu nhưng cách diễn xuất, điệu bộ và nhạc nền vẫn giữ lối cách điệu hóa như xưa và bỏ việc đánh trống chiến, bỏ gỏ thanh la.

 

2 – Dòng sân khấu cải lương tuồng Tây :

Dòng sân khấu cải lương tuồng Tây song hành với dòng sân khấu tuồng Tàu đã tạo ra những sắc thái đa dạng cho ngành nghệ thuật sân khấu cải lương non trẻ.

Năm 1917, ông Pierre Châu Văn Tú, du học bên Pháp trở về nước, đem áp dụng những điều sở đắc của ông về nghệ thuật sân khấu Pháp trong việc xây dựng một rạp hát( Rạp hát Thầy Năm Tú ở sau chợ Mỹtho), lập một đoàn hát cải lương với bảng hiệu là gánh hát Thầy Năm Tú và ông lập một xưởng chế tạo máy hát dĩa với nhản hiệu ‘’ La voix du maitre ‘’.

Thầy Năm Tú đã nâng hình thức Ca Ra Bộ thành hình thức Hát Cải Lương, có tuồng tích do soạn giả Mạnh Tư Trương Duy Toản sáng tác. Đêm diễn cải lương của gánh hát Thầy Năm Tú có phông, màn, tranh cảnh trang trí, có dàn đèn, có dàn đờn cổ nhạc đờn cho diễn viên ca và khi màn bỏ xuống, có dàn đờn nhạc Tây đờn giúp vui khán giả trong khi chờ dọn cảnh màn sau.

Tuy nhiên không phải ông Châu Văn Tú là người khơi nguồn cho dòng sân khấu cải lương tuồng Tây mà chính là nghệ sĩ Năm Châu, kép hát của gánh hát Thầy Năm Tú, mới là người có công lớn trong việc mở một lối đi cho sân khấu, khác với những vở tuồng Tàu đang rất thịnh hành trong thời điểm nầy.

Nghệ sĩ Năm Châu, tức Nguyễn Thành Châu, sanh ngày 09 tháng 01 năm 1906, tại tổng Thuận Trị, làng Điều Hòa, quận Châu Thành, tỉnh Mỹtho. Cha của anh là công chức Tòa Bố tỉnh Mỹtho, vì làm mích lòng ông tỉnh trưởng người Pháp, bị thuyên chuyển ra làm việc ở đảo Phú Quốc. Anh Năm Châu học năm thứ hai trường Collège de Mỹtho( Ban Trung Học), khi bải trường, anh ra Phú Quốc thăm cha. Vì bão tố, tàu bè không có nên anh không trở về đất liền kịp ngày tựu trường, anh bị trễ nên bị cúp học bỗng và bị đuổi. Gia đình định cho anh tiếp tục học trung học trường Taberd Saigon nhưng anh quyết định tự lập, theo nghiệp cầm ca, anh gia nhập gánh hát Thầy Năm Tú năm 1922.

Năm 1923, nghệ sĩ Năm Châu gia nhập gánh hát Trần Đắc, anh sáng tác vở tuồng cải lương đầu tiên tựa đề Nghĩa Bộc Thủ Phần, vở tuồng kế là Tiên Biệt Phu.

Năm 1924, anh sáng tác các vở : Tái Sanh Duyên, Mổ Tim Tỷ Can, Thôi Tử Thí Tề Quân, Võ Tòng Sát Tẩu, Anh Hùng Náo Tam Môn Nhai,. Những vở nầy trước đây soạn giả Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền sáng tác cho gánh hát Tập Ích Ban. Khi mới vào nghề sáng tác, nghệ sĩ Năm Châu vẫn phải dựa theo cốt truyện Tàu và mô phỏng theo một số tác phẩm của bậc tiền bối Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, nhưng dưới ngòi bút của Năm Châu, cũng là những truyện như Anh Hùng Náo Tam Môn Nhai, Võ Tòng Sát Tẩu… lời văn của soạn giả Năm Châu bỏ bớt chữ Nho, bớt điển tích của Tàu và bài ca nặng về những bài ca cổ nhạc Việt Nam. Vì vậy, cùng là một tựa tuồng, cốt truyện giống nhau nhưng cách diễn những vở tuồng của nghệ sĩ Nguyễn Thành Châu đã lượt bỏ khá nhiều lối ca, lối diễn theo phong cách tuồng Tàu. Do đó dàn đờn cổ nhạc của đoàn hát tuồng của soạn giả Nguyễn Thành Châu không dùng lối đánh mỏ, đánh trống chiến, và thanh la để hổ trợ cho diễn xuất của diễn viên.

Năm 1926, nghệ sĩ Năm Châu gia nhập gánh hát Tái Đồng Ban của ông Bầu Hai Cu( cha của kép Hai Giỏi, chồng quá cố của cô Năm Phỉ ), soạn giả Năm Châu sáng tác vở tuồng Mộc Quế Anh dâng cây.

Thành phần đào kép của gánh hát Tái Đồng Ban gồm nhiều nghệ sĩ tài danh như bên đào có : Phùng Há, Ba Liên, Ba Nhàn, Ba Điều, Tư Nhỏ, Sáu Trâm, Sáu Tị… bên kép có : Năm Châu, Tám Mẹo, Ba Du, Tư Út, Hai Ngỡi, Hai Bông, Bảy Nhiêu, Tư Thới, Tư Chơi…

Gánh Tái Đồng Ban mời ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền làm thầy tuồng vì vậy các vở tuồng ăn khách cũ của ông ở gánh hát Tập Ích Ban được dựng lại như tuồng Giọt Máu Chung Tình, ( tức Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà ), Phụng Nghi Đình, Hoa Mộc Lan…

Minh sư xuất cao đồ, ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền chẳng những đào luyện nghệ thuật ca hát, diễn xuất cho các nghệ sĩ Năm Châu, Bảy Nhiêu… mà còn dạy cho các nghệ sĩ nầy kỹ thuật sáng tác tuồng cải lương. Năm Châu và nhóm nghệ sĩ trong gánh hát Tái Đồng Ban như Tư Chơi, Tư Trang, Năm Nở, Bảy Nhiêu, Duy Lân đều trở thành soạn giả, sáng tác được nhiều tuồng cải lương hay. Một số tuồng của các soạn giả vừa kể trên thiên về tuồng xã hội Việt Nam, dựa theo cốt truyện tiểu thuyết của nhà văn Hồ Biểu Chánh( tuồng Ngọn cỏ gió đùa, Tội của Ai, Kiếp nghèo phận bạc, Những trẻ lạc loài…) hoặc tiểu thuyết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn( Hồn Bướm Mơ Tiên, Đoạn Tuyệt, Hoa Rơi Cửa Phật, Gánh Hàng Hoa, Nữa Chừng Xuân, Một Tối Tân Hôn…)

Đến cuối thập niên 1930, nghệ sĩ Tư Chơi có những sáng tác mói không dựa theo những tiểu thuyết của Tây hay của Việt Nam, đó là các vở Khúc Oan Vô Lượng, Gánh cải trạng nguyên, Lở Tay Trót Đã Nhúng Chàm…Nghệ sĩ Tư Chơi là nghệ sĩ đầu tiên sử dụng nhạc Pháp lời Việt trong các vở tuồng Hoạt Kê Hài Hước của anh. Các vở Hoạt Kê Hài Hước( opérette) được viết theo luật Tam Duy Nhất của nền kịch cổ điển Pháp : ( Hành Động Duy Nhất, Thời Gian Duy Nhất, Địa Điểm Duy Nhất). Các bài ca thịnh hành của Pháp lúc bấy giờ như bài J’ Ai deux amours, C’est à Capri, Tant qu’il y aura des étoiles, Marinella, Tango Chinois… đưọc viết lời Việt dùng trong các tuồng Hoạt Kê Hài Hước đó.

Từ những năm 1929 đến năm 1936, nghệ sĩ Năm Châu chuyễn hướng sáng tác, anh lấy cốt truyện của tiểu thuyết Pháp hoặc các kịch cổ điển nước Pháp, nước Anh để sáng tác thành tuồng cải lương. Năm 1929, nghệ sĩ Năm Châu sáng tác vở Bằng Hữu Binh Nhung( phóng tác theo tiểu thuyết Les trois mousquetaires). Những vở phỏng dịch hoặc phóng tác theo tiểu thuyết và kịch cổ điển Anh, Pháp của Năm Châu và Duy Lân có :

- Áo Người Qiuân Tử……………( L’ homme en habit )

- Túy Hoa Vương Nữ ………….. ( Marie Tudor của Victor Hugo )

- Giá Trị và danh dự……………..(  Le Cid của Corneille )

- Bằng Hữu Binh Nhung…………( Les trois mousquetaires )

- Miếng thịt người………………..( Le marchand de Venise )

- Gió Ngược Chiều……………… ( Ruy Blas )

- Tơ vương đến thác……………. ( La dame aux camélias )

- Cánh bườm đen……………….. ( Tristan ct Iseult )

- Giai nhân và ác qủy…………… (  La belle et la bëte )

Sân khấu cải lương tuồng Tây là tiếng gọi chung những vở tuồng không phải diễn theo phong cách cải lương tuồng Tàu ( y phục cổ trang, ca diễn theo hình thức vũ đạo hóa, âm nhạc hóa và tiết tấu cường điệu).

Cải lương tuồng Tây gồm có những vở tuồng phóng tác theo kịch của nước Anh, nước Pháp hoặc tiểu thuyết của ngoại quốc và những vở tuồng xã hội Việt Nam( sáng tác hay phóng tác theo các tuyết thuyết của Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Nhất Linh, Khái Hưng, nhóm Tự Lực Văn Đoàn…)

Phong cách biểu diễn tuồng Tây chú trọng ca và diễn xuất tự nhiên, gần với cuộc sống thật thường ngày, theo chủ trương nghệ thuật của nghệ sĩ Năm Châu là xây dựng « Một sân khấu thật và đẹp.  »

 

3 -   Năm 1930 – 1940, thời kỳ bá chủ của các loại tuồng Tiên, tuồng Phật và tuồng kiếm hiệp La Mã .

Năm 1930, nạn kinh tế khủng hoảng đổ ập xuống Đông Dương nói chung và miền Nam làm ảnh hưởng tới đời sống của mọi tầng lớp trong xã hội. Lúa gạo xuống giá chỉ còn một cắc hai ( 0,$ 12) một gịa 40 lít mà dân chúng không có tiền để mua, lấy đâu ra tiền để mua vé coi hát. Những gánh hát đại ban như gánh hát Trần Đắc, Huỳnh Kỳ, Nghĩa Hiệp Ban, Nam Hưng Ban, Phước Trung Nam, Đồng Thinh, Phước Tường đều lần lượt bị rã gánh.

Nhiều đạo giáo mới ra đời trong thời gian đất nước lâm vào cơn khủng hoảng nầy( đạo Cao Đài khai đạo nhằm ngày rầm thánh 10 năm Bính Dần; Hoà Hảo khai đạo ngày 18 tháng 5 năm 1939 …) dân chúng qúa khổ nên vào chùa, gia nhập đạo giáo để khẩn cầu Trời Phật cứu khổ, cứu nạn, giúp cho mưa thuận gió hòa, nông ngư đắc lợi.

Ông Trương Văn Thông, bầu gánh hát Tân Thinh để tâm đến việc người dân sùng đạo khi gặp cảnh khó khăn nên chủ trương cho gánh hát Tân Thinh của ông hát những tuồng Tiên, tuồng Phật như Thích Ca đắc đạo, Ngũ Nương Tiên xuất thế, Bình Linh Hội, Hổn Ngươn Trận, Quan âm Diệu Thiện…Ông Bầu Trương Văn Thông lại cho sử dụng nhiều trò xảo thuật như mỗi bước đi của thái tử Sỉ Đạt Ta là nở một hoa sen, hoạt cảnh trong 10 phút đổi 7 cảnh từ tạo thiên lập địa tới triều đại vua cha của Sỉ Đạt Ta, nhiều cảnh phật hóa phép diệt qủy, trừ ma khi ma quỷ tới cám dỗ lúc Phật tu dưới cội bồ đề.  Dân đang cầu mong có phép Tiên, phép Phật cứu khổ cứu nàn, vô xem hát của gánh Tân Thinh, dân thấy những cảnh hóa phép của Tiên, của Phật nên rất thích. Gánh hát Tân Thinh vẫn thu hút được đông đảo khán giả mua ve vào xem hát ngay trong thời kỳ cả nước ta đang lâm vào cơn kinh tế khủng hoảng nhờ vào các tuồng Tiên và Phật kể trên.

Gánh hát Văn Võ Hí Ban bắt chước gánh Tân Thinh, hát tuồng Tam Tạng thỉnh kinh, Mục Liên Thanh Đề, Quan Âm Thị Kính, cũng thu hút được nhiều khán giả.

Gánh hát Thỉ Phát Khuê hát tuồng Quan Âm Diệu Thiện, Phật Nhập Niết Bàn…

Gánh hát Tân Thiếu Niên hát tuồng Phong Thần, Phong Kiếm Xuân Thu, Tổn Tẩn đại chiến Hải Triều, Na Tra lóc thịt, Nam Du Huê Quang, Bắc Du Chơn Võ, Đông Du Bát Tiên, Tây Du Tam Tạng… Các gánh hát triệt để khai thác các trò xảo thuật, thần tiên đấu phép, thăng thiên, độn thổ.

Tuồng Tiên, tuồng Phật lấn áp các loại tuồng Tàu, tuồng tâm lý xã hội nhưng thời gian sau cuộc khủng hoảng kinh tế, đến hồi Trung Nhật chiến tranh( 1937) dân chúng tỏ ra không tha thiết gì đến các tuồng Tiên tuồng Phật đó nữa.

Năm 1934 đến năm 1945, môn phái tuồng Kiếm hiệp ra đời và bản vọng cổ trở thành bản nhạc vua trên sân khấu cải lương.

Khi miền Nam thoát khỏi nạn khủng hoảng kinh tế, lúa gạo có giá trở lại, mức sống của người dân được nâng cao nên nhu cầu xem hát giải trí cũng tăng. Lúc đó ở Saigon ngoài hai hãng dĩa có từ trước là hãng Pathé, Béka, nay có thêm mấy hãng dĩa mới Asia, Odéon. Tữu quán Đức Thành Hưng ở đường d’Espagne( nay là đường Lê Thánh Tôn) là trung tâm thi thố đờn ca tài tử cổ nhạc, quy tụ được nhiều nam, nữ danh ca và danh cầm của cả miền Nam Kỳ Lục Tỉnh.

Những danh ca vọng cổ trong làng dĩa nhựa được yêu chuộng nhất trong thời điểm nầy có các nữ danh ca : Tư Sạng, Ngọc Nữ, Năm Cần Thơ, Ba Bến Tre, Ba Trà Vinh, Tư Bé, Hai Đá, Ba Được… Nam danh ca có : Năm Nghĩa, Tám Thưa, Hồng Châu, Năm Phồi, Ba Giáo, Tám Bằng, Thanh Tao, Tư Xe, Bảy Bửu, Út Trà Ôn, Bảy Cao, Thành Công…

Bản vọng cổ từ nhịp 8 tăng lên thành nhịp 16, rồi 32 nhịp, được kỷ thuật ca luyến láy và những giọng ca thiên phú làm tăng thêm giá trị đến độ bản vọng cổ được coi là mộ bản nhạc vua của sân khấu cải lương. Những danh ca vọng cổ dầu chưa rành kỷ thuật diễn xuất cũng được trao cho vai kép chánh vì thời điểm nầy khán giả xem hát cải lương thích nghe ca vọng cổ.

Soạn giả Mộng Vân ( Nguyễn Văn Trung) là soạn giả từ năm 1932 đến năm 1952, người Bạc Liêu, muốn khai thác tối đa những giọng ca vọng cổ của các danh ca Bạc Liêu nên ông lập ra môn phái tuồng kiếm hiệp kỳ tình. Tuồng của soạn giả Mộng Vân viết dựa các tiểu thuyết kiếm hiệp xuất bản tại Hà Nội mà thời bấy giờ người ta gọi là tiểu thuyết ba xu vì tiểu thuyết được bán với giá ba xu mỗi tập. Đó là các tiểu thuyết kiếm hiệp : Long Hình Quái Khách, Bồng Lai Hiệp Khách, Người Nhạn Trắng, Thiếu Lâm Trường Hận, Hỏa Thiêu Hồng Liên Tự, Lục Kiếm Đồng, Bích Liên Giáo Chủ… của các tác giả Lý Ngọc Hưng, Lâm Tuyền, Thanh Bình, Hải Bằng… Các tuồng kiếm hiệp của soạn giả Mộng Vân giữ nguyên tựa của tiểu thuyết, được cung cấp cho ba đoàn hát lớn, ba đoàn hát nầy theo phong cách diễn xuất của loại tuồng kiếm hiệp mà kỷ thuật dàn dựng và ca diễn được quy định theo một trình thức như sau : ‘’ Đấu poignard, nhảy cửa sổ, ca vọng cổ, phựt đèn màu’’.

Soạn giả Mộng Vân sáng tác thêm nhiều bản cổ nhạc nhỏ để ca gát trước khi vô vọng cổ, làm cho bản vọng cổ thêm hấp dẫn, đa dạng và khiến cho khán giả thích thú đến độ phải vổ tay khi nghe nghệ sĩ danh ca vô chữ Hò đầu của bài vọng cổ. Các bài bản nhạc nhỏ đã làm giàu thêm cho vốn liếng cổ nhạc đó là : Giang Tô, Phong Nguyệt, Thủ Phong Nguyệt, Tô Võ Chăn Dê, Lạc Xuân Hoa, Nhạn Về, Kiều Nương, Sương Chiều, Tú Anh, Uyên Ương Hồ Vũ, Vạn Huê Trường Hận, Chi Hoa Trường Hận…

Ba đoàn hát hát tuồng kiếm hiệp La Mã đó là gánh Phát Thanh của Bầu Ba Tẹt( tức kép Thiện Tâm),, gánh Hậu Tấn - Bảy Cao và gánh Hậu Tấn – Năm Nghĩa.

Các danh ca Năm Nghĩa, Bảy Cao, Ba Khuê, Năm Phồi đều là người quê quán ở Bạc Liêu, đồng hương của soạn giả Mộng Vân. Các danh ca được đào luyện trong ‘’ lò ‘’ Mộng Vân đều trở thành các ông bầu gánh hát lừng danh, họ tiếp tục con đường sáng tác và biểu diễn tuồng kiếm hiệp trường phái Mộng Vân : nghệ sĩ Thiện Tâm ( còn gọi là Ba Tẹt, Bầu đoàn hát Phát Thanh), Bảy Cao ( bầu đoàn hát Hoa Sen), Năm Nghĩa( bầu đoàn hát Thanh Minh), Ba Khuê( bầu đoàn hát Hữu Tâm), Vân Sinh( bầu đoàn hát Tân Hương Hoa), Thanh Tao( Bầu đoàn hát Thanh Tao), Út Trà Ôn( bầu đoàn hát Thống Nhứt – Út Trà Ôn).

Cải lương tuồng kiếm hiệp đẩy lui các loại tuồng Tiên, tuồng Phật và làm cho các loại tuồng Tàu, tuồng Tây, tuồng xã hội Việt Nam phải chịu một thời gian điêu đứng.

Nối tiếp con đường sáng tác các tuồng kiếm hiệp của Mộng Vân có hai soạn giả Sáu Phát và Sáu Hải.

Soạn giả Sáu Hải có trình độ Tây học, anh không sáng tác các tuồng kiếm hiệp theo những truyện kiếm hiệp xuất bản ở Việt Nam mà dựa theo những truyện kiếm hiệp Tây Phương để phóng tác( truyện Le Capitan, Le pont de soupire của Michel Zévaco, truyện Le comte de Monte Cristo…)

Tuồng của soạn giả Sáu Hải bao giờ cũng chú trọng văn chương trao chuốc, kỷ thuật tinh tế. Ngày nay những bài ca như các bản Nam Xuân qua Nam Ai, những bản óan ca độc chiếc của Sáu Hải còn lưu lại là những áng văn chương rất hay, được dùng trong việc dạy cho học viên trong các lò cổ nhạc.

 

4- Thời vàng son của sân khấu cải lương ( 1954 – 1975 )

Từ năm 1945 đến năm 1954, các đoàn hát cải lương chỉ hát được ở những thành phố lớn vì tình hình an ninh ở một số quận, huyện, làng xã không được bảo đảm. Các đoàn hát diễn lại những tuồng Tàu, tuồng Tây ( phóng tác tiểu thuyết hay kịch Anh, Pháp), tuồng kiếm hiệp, tuồng Phật( Quan Âm Thị Kính) và một số tuồng xã hội( phóng tác theo các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh và nhóm Tự Lực Văn Đoàn), có một số tuồng xã hội của các soạn giả Năm Châu, Tư Chơi, Tư Trang, Năm Nở, Duy Lân, Thái Thụy Phong, Thanh Cao, Nguyễn Phương, Viễn Châu…

Từ năm 1954 đến năm 1975,  có thể nói là một thời kỳ vàng son của sân khấu cải lương.

Năm1954, hòa bình được lập lại, dân chúng làm ăn phát đạt, nhu cầu giải trí tăng, việc giao thông thuận lợi nên nhiều nghệ sĩ vay tiền để lập gánh hát mới hoặc ký hợp đồng với các danh ca, diễn viên tài danh để phát triển thêm gánh hát của mình. Thời điểm nầy có những gánh hát đại ban như Thanh Minh ( Thanh Minh Thanh Nga ), Hoa Sen, Việt Kịch Năm Châu, Kim Thanh – Út Trà Ôn, Thủ Đô Ba Bản, Kim Chung, Dạ Lý Hương, Hữu Tâm, Hương Hoa, Việt Hùng – Minh Chí, Kim Chưởng, Hương Mùa Thu, Trăng Mùa Thu, Trâm Vàng, Tiếng Chuông, Ánh Chiêu Dương, Thúy Nga - Phước Trọng, Thủ Đô - Tấn Tài, Út Bạch Lan – Thành Được, Thanh Hương – Hùng Minh…

Những soạn giả cải lương được ái mộ trong thời điểm nầy có : Năm Châu, Tư Trang, Năm Nở, Tư Chơi, Duy Lân, Mộng Vân, Bảy Cao, Năm Nghĩa, Tư Thới, cô Bảy Nam, Trần Văn May, Thiếu Linh, Nguyễn Phương, Lê Khanh, Mộc Linh, Hà Triều Hoa Phượng, Hoàng Khâm, Kiên Giang, Viễn Châu, Ngọc Huyền Lan, Ngọc Văn, Hoài Ngọc, Thu An, Vân An, Nhị Kiều, Phương Ngọc, Nguyễn Liêu, Thế Châu, Quy Sắc, Thái Thụy Phong, Hoàng Kinh, Minh Nguyệt, Yên Ba, Loan Thảo, Hoàng Việt…

Mỗi đoàn hát tùy theo quan điểm nghệ thuật của người lèo lái( bẫu gánh hát và soạn giả thường trực), chọn cho gánh hát của mình một loại hình nghệ thuật sân khấu thích hợp. Ví dụ :

- đoàn hát Phụng Hảo của bà bầu Phùng Há chuyên hát những tuồng Tàu, hát theo lối hát Quảng, các tuồng như Phụng Nghi Đình, Mạnh Lệ Quân Thoát Hài, Quan Công Phục Huê Dung…

- đoàn hát Việt Kịch Năm Châu của nghệ sĩ Nguyễn Thành Châu thì chuyên diễn những tuồng Tây, phóng tác theo các kịch và tiểu thuyết Anh , Pháp như tuồng Gió Ngược Chiều ( Ruy Blas), Miếng Thịt Người( Le marchand de Venise), Bằng Hữu Binh Nhung( Les trois mousquetaires), Giá Trị và Vinh Dự( Le Cid ), Hàm Lệ, Thái Tử nước Đan Mạch( Hamlet)…

- đoàn hát Hoa Sen của ông Bầu Bảy Cao chuyên hát những tuồng chiến tranh, còn được gọi là tuồng Cắc Bùm như Mộng Hòa Bình, Đoàn chim Sắt, Nợ Núi Sông, Đêm Lạnh Trong Tù…

- đoàn hát Thanh Minh của Bầu Nghĩa chuyên hát những tuồng dã sử Việt Nam như tuồng Đất Việt của Người Việt, Cành Đào Thăng Long, Cầu Gổ Hoàng Mai Thôn, Núi Liểu Sông Bằng, Áo Gấm Khôi Nguyên, Đồ Bàn Di Hận, Biên Thùy Nổi Sóng, Ngược Dòng Sông Lỗi, Ngược Sóng Phú Lương, Hồi Trống Vân Lâu, Tiếng sấm Hà Hồi, Người Vợ không bao giờ cưới, Bên Cầu Dệt Lụa, Áo Cưới Trước CỔng Chùa…

- đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga của bà Bầu Thơ chuyên hát tuồng xã hội Việt Nam như các tuồng Đôi Mắt Người Xưa, Ngã Rẻ Tâm Tình, Bóng Chim Tăm Cá, Nữa Đời Hương Phấn, Con Gái Chị Hằng, Rồi Ba Mươi Năm Sau, Tuyệt Tình Ca, Đời Hai Mặt, Thầy Cai Tổng Bồi, Đoạn Tuyệt, Mộng đẹp những đời hoa, Vàng Sáu Bạc Mười,

- đoàn hát Kim Chưởng của bà bầu Kim Chưởng chuyên hát tuồng hương xa và tuồng đánh chưởng theo tiểu thuyết chưởng của nhà văn Kim Dung như tuồng Thần Điêu đại hiệp, Song Long thần chưởng, Qủy Bảo, Thuyền Ra Cửa Biển, Người Nhạn Trắng, Ảo ảnh Châu Bích Lệ, Đồ Long Kiếm, Huyết Phiến Lôi Phong, Theo Chân đao phủ thủ, Nhà Sư và tướng cướp, Người Đòi Nợ Máu…

- đoàn hát Kim Chung của ông Bầu Long chú trọng đến các loại tuồng Diễm huyền, như Trăng giải đêm sương, Bên cầu vọng thê, Tình Chàng ý thiếp, Lời thơ trên tuyết, Nắng thu về ngõ trúc, Giai nhân bên suối bạc, Tâm sự loài chim biển, Khói cõ quê hương…

- đoàn Hương Mùa Thu của soạn giả Thu An và đào chánh Ngọc Hương thì chú trọng loại tuồng có nhiều bài ca tân cổ giao duyên. Tuồng tích có loại hương xa, loại đánh chưởng, loại tuồng xã hội… các loại tuồng đó về cấu trúc bài ca thì luôn luôn có bản tân nhạc do Thu An sáng tác để gác cho diễn viên ca vọng cổ như tuồng Đám Cưới Đầu Xuân, Chuyến Đò Thương, Kiếp Chồng Chung, Saigon Thác Bạc, Trăng Sương Cầu Trúc, Con Cò Trắng, Gánh Cỏ Sông Hàn, Đức Xuyên Kiếm, Huyết Hồng Đao, Nước Mắt Đứa Em Mù, Tướng Cướp Bạch Hải Đường…

- Các đoàn Minh Tơ, Khánh Hồng, Thanh Bìng – Kim Mai, Huỳnh Long… hát cải lương tuồng cổ, pha lối hát Hồ Quảng hoặc lối hát Quảng đông…

Các soạn giả sáng tác các vở tuồng tự do theo quan điểm của mình, trình bày nhiều vấn đề tâm lý, xã hội và lý giải theo quan niệm và sở thích riêng. Tùy theo từng đoàn hát, cốt truyện tuồng sẽ được chọn và thể hiện dưới loại hình nghệ thuật chuyên môn của đoàn hát như tuồng Tàu hay tuồng xã hội, tuy nhiên đó không phải là điều bắt buộc soạn giả phải tuân theo. Điều quan trọng là vở tuồng đó có nội dung thu hút khán giả không, có đất cho diễn viên thi thố tài ca diễn không và có mang lại doanh thu cho đoàn hát không.

Trong giai đoạn sân khấu cải lương phát triển rầm rộ đó, các soạn giả, họa sĩ và chuyên viên kỷ thuật sân khấu có nhiều phương tiện để áp dụng những thành tựu khoa học, kỷ thuật và mỹ thuật vào trong tác phẩm của mình.

 

5 – Sân khấu cải lương sau năm 1975.

Sau năm 1975, tất cả các đoàn hát cải lương tư nhân đều bị giải tán hết. Những đoàn mới thành lập dựa trên các xác gánh hát cũ nhưng do Đảng và Sở Văn Hóa Thông Tin dựng lên, tuyển chọn diễn viên, nhạc sĩ và đưa cán bộ xuống làm trưởng đoàn. Các đoàn hát đó mang danh nghĩa là đoàn cải lương tập thể và đoàn Văn Công tức đoàn hát quốc doanh.

Các đoàn mới được thành lập mang bảng hiệu : đoàn cải lương Saigon 1, đoàn Saigon 2, đoàn Saigon 3, đoàn Hương Mùa Thu, đoàn Thanh Nga, đoàn Phước Chung, đoàn cải lương tuồng cổ Minh Tơ, đoàn cải lương tuồng cổ Huỳnh Long, hai đoàn kịch nói Bông Hồng và Kim Cương, một đoàn hát Tiều, một đoàn hát Quảng và đoàn Văn Công.

Năm 1975, ở Saigon, Chợlớn và Gia Định có hơn hai chục rạp hát dành cho hát cải lương. Đó là các rạp Hưng Đạo, Nguyễn Văn Hảo, Quốc Thanh, rạp Aristo, rạp Thống Nhứt, rạp Cao Thắng, rạp Đại

 Đồng( quận 3), rạp Thăng Long, rạp Thái Bình, rạp Kim Châu, rạp Olympic, rạp Kinh Thành( Cầu Ông Lãnh), Rạp Long Vân, rạp Long Phụng, rạp Lao Động B, rạp Lệ Thanh B, Rạp Hào Huê Chợ Lớn, rạp Thủ Đô, rạp Kinh Thành( Kim Biên),rạp Kinh Thành( Tân Định), rạp Cây Gỏ, rạp Quốc Thái, rạp Cao Đồng Hưng, rạp Đại Đồng Gia Định, rạp Hòa Bình, chưa kể các miếu đình dành cho hát cải lương tuồng cổ và cải lương hát như đình Minh Phụng, đình Tân Kiểng,  đình Cầu Muối, đình Cầu Quan,  đình Tân An, đình Phú Hòa, đình Lý Nhơn( quận 4), …

Đến năm 2000, trừ rạp hát Hưng Đạo, tất cả các rạp háty kể trên được Sở Văn Hóa Thông Tin ký hợp đồng cho mướn làm vũ trường , dancing hoặc làm restaurant ca nhạc, nhà hàng tổ chức tiệc cưới…

Các đoàn hát cải lương tập thể cũng lần lượt được giải tán, chỉ còn đoàn Văn Công và 3 đoàn hát cải lương Trần Hữu Trang , tất là những đoàn hát nhà nước.

Soạn giả được tự do sáng tác theo « định hướng xã hội chủ nghĩa ».

Khi nào đề cương tuồng được Ban Chĩ huy trại sáng tác thông qua đúng định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa thì được vô trại sáng tác. Phải được Hội đồng duyệt của trại sáng tác duyệt qua «  phác thảo 1 », người soạn giả sẽ viết kỷ hơn, có bài ca, đối thoại thành ra bản «  phác thảo 2 ». Khi nào bản phác thảo 2 được thông qua thì mới tới việc viết hoàn chỉnh vở tuồng trên kịch bản. Khi nào được thông qua lần thứ 3 thì tuồng mới được đưa lên sàn tập. Qua sự cắt xén của đạo diễn, tuồng tập xong phải kiểm duyệt « đường giây ». Đó là lần kiểm duyệt thứ 4, khi nào được thông qua thì trình diễn phúc khảo sơ bộ có y trang, mũ mãng, ánh sáng và nhạc đệm. Lần thứ 5 nầy được thông qua thì có lần kiểm duyệt chót( lần thứ 6) có đủ Hội đồng kiểm duyệt. Khi được chấop thuận của Hội đồng duyệt thì mới hát cho công chúng xem.

Đến lúc nầy thì khán giả ái mộ cải lương sẽ không đi xem hát vì họ xem hát cải lương chớ không phải vô rạp nghe chỉ thị có bài ca, hay thông cáo chính trị bằng vọng cổ.

Trên đây là lời tâm sự của một soạn giả ở trong nước, viết thơ than thở với Nguyễn  Phương, tôi xin ghi lại để tìm hiểu vì sao khán giả bỏ rơi cải lương, vì sao nghệ thuật sân khấu cải lương xuống dốc một cách thê thảm.

Quí vịđã du ngoạn trên các nẽo đường lang thang của nghệ thuật sân khấu cải lương từ năm 1917 đến năm 2007, chì là như cỡi ngựa xem hoa, với một bài báo ngắn, người viết chỉ có thể nói một cách tổng quát sự hình thành và những bước trưởng thành của nghệ thuật sân khấu cải lương. Nếu đi sâu từng bộ môn như văn chương, cốt chuyện tuồng cải lương, hội họa, trang trí, cổ nhạc, nhạc nền…v…v…thì mỗi ngành nghệ thuật đó đều đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu nghiêm túc.

Như trên đã kể, nghệ thuật sân khấu là một loại hình nghệ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác tổng hợp như văn, thơ, nhạc, múa, hội họa, kiến trúc…Những thành tựu của các ngành nghệ thuật vừa kể góp phần phát triển ngành nghệ thuật sân khấu cải lương và ngược lại, sân khấu cải lương cũng ảnh hưởng tới sự quảng bá và phát triển của các ngành nghệ thuật tổng hợp đó.

 

Nguyễn Phương 12/ 2005.