Danh ca vọng cổ vang bóng
một thời: Út Trà Ôn
ngocanh
Sau buổi phát thanh giới thiệu
về bản vọng cổ, bản nhạc vua của sân
khấu cải lương, nhiều thính giả của
Đài gởi điện thư và gọi điện
thoại đề nghị Nguyễn Phương giới
thiệu thêm về quá trình phát triển của bản
vọng cổ và các phong cách khác nhau đã giúp cho bản
vọng cổ được phát triển từ nhịp
đôi sang nhịp tư, rồi nhịp 8, nhịp 16,
đến 32 nhịp và sau này nhiều nghệ sĩ ca
vọng cổ nhịp 64.
Vua vọng cổ Út Trà Ôn.
(Hình do soạn giả Nguyễn Phương cung cấp).
Thưa quý thính giả, sự thêm nhịp ca, kéo dài cách ca
một câu vọng cổ cũng biểu hiện sự thay
đổi về cách viết vọng cổ. Do đó các
nhạc sĩ, các soạn giả và các ca sĩ đều
có đóng góp công lao không nhỏ trong việc phát triển
không ngừng của bản nhạc vọng cổ.
Trước hết, xin ghi
nhận là chính các danh ca, các nghệ sĩ khi ca bản
vọng cổ, nhờ làn hơi đặc biệt mà
mỗi danh ca chế biến cách thể hiện bài ca
vọng cổ theo ý riêng tuy họ vẫn giữ đúng
nhịp và đúng chữ đờn cuối khung nhạc
trong bản vọng cổ. Nhờ đó mà người nghe
vẫn nghe ra là bản vọng cổ tuy cách thể
hiện của mỗi danh ca có sắc thái riêng.
Danh ca Hồng Châu sáng chế
lối ca cà lăm, lối ca vọng cổ diễu trong bài
vọng cổ Cọp Cọp Bonjour thầy Ba, mở màn cho
lối ca vọng cổ diễu mà sao đó nghệ sĩ
hài Tư Xe ca vọng cổ diễu trong vai Tạ Lôi
Nhược trong tuồng San Hậu và Hề Lập ca cà
lăm vọng cổ diễu trong tuồng Lý Chơn Tâm
Cởi Củi.
Mở màn hò và ngâm thơ trong
câu ca vọng cổ.
Ca vọng cổ cà lăm
chỉ có tác dụng gây cười, chỉ dành cho những
vai hề ca. Trong các tuồng cải lương và các
dĩa ca vọng cổ, nhân vật được khán thính
giả ưa thích là những vai đào thương, kép mùi
với những mối tình hoặc chung thủy mà lắm
cảnh ngang trái hoặc những chuyện tình dang dở
đau thương. Do đó giọng ca chân phương và
nồng ấm của danh ca Út Trà Ôn chinh phục khán thính
giả một cách mãnh liệt. Nghệ sĩ Út Trà Ôn
lại có biệt tài ngâm thơ theo lối Tao Đàn, nói
thơ theo lối nói thơ Lục Vân Tiên hoặc hò Đồng
Tháp trong lòng câu vọng cổ mà không làm sai lạc âm
điệu vọng cổ. Kỹ thuật ngâm thơ
hoặc hò trong câu ca vọng cổ đã giúp cho các nhạc
sĩ sáng kiến tăng thêm nhịp cho các câu vọng
cổ, tìm thêm được những chữ đờn
lạ, xen vào câu vọng cổ nhạc đệm cho ngâm
thơ khiến cho các soạn giả cũng theo đà
đó mà viết câu văn hay hơn, nội dung phong phú
hơn. Xin mời quý thính giả nghe danh ca Út Trà Ôn ca bài
vọng cổ Ông Lái Đò, trong bài vọng cổ nầy có
nhiều đoạn nói thơ theo lối nói thơ Lục
Vân Tiên.
Đoạt giải nhứt
thi ca cổ nhạc hãng rượu Bình Tây.
Nghệ sĩ Út Trà Ôn tên
thật là Nguyễn Thành Út, sanh năm 1919, tại xã Đôn
Châu, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Khi vào nghề hát
ông lấy nghệ danh Út Trà Ôn để tưởng
nhớ ơn nghĩa sanh thành của cha mẹ và mảnh
đất chôn nhau cắt rún. Vì là con út, thứ mười
nên nghệ sĩ thường gọi ông là anh Mười
Út hoặc cậu Mười Út.
Năm 18 tuổi, Út Trà Ôn theo
bạn lên Saigòn đờn ca tài tử nơi quán ca nhạc
Đức Thành Hưng sau chợ Bến Thành. Út Trà Ôn
dự cuộc thi ca cổ nhạc của hãng rượu
Bình Tây và đoạt giải nhứt. Đài Pháp Á mời Út
Trà Ôn ca vọng cổ và các bài bản cải lương
trên Đài Pháp Á. Nghệ sĩ Út Trà Ôn nổi danh qua các
bản vọng cổ Thức Suốt Đêm Đông,
Sầu Bạn Chung Tình, Tôn Tẩn Giả Điên.
Đệ nhứt danh ca Út Trà
Ôn
Các đoàn hát nghe danh danh ca Út
Trà Ôn, họ đưa nhau mời Út Trà Ôn về cộng tác
với gánh hát của họ. Năm 1942, ông Bầu
Trương Văn Thông, chủ gánh hát Tân Thinh mời Út Trà
Ôn làm kép chánh, hát các tuồng như Bàng Quyên – Tôn Tẩn, Tôn
Tẩn đại chiến Hải Triều, Tôn Tẩn phá
Bình Linh Hội. Nhờ lối ca chân phương, chắc
nhịp, giọng trầm ấm và khỏe khoắn, Út Trà
Ôn được khán giả bốn phương ái mộ.
Năm 1943, ông Bầu Hề
Lập mời nghệ sĩ Út Trà Ôn cộng tác trong
tuồng Lý Chơn Tâm Cởi Củi. Đây là thời
điểm mà những nghệ sĩ ca hay, có sắc vóc được
nhận tiền thưởng khi mới về đoàn hát.
Sau này tiền thưởng được gọi là
tiền contrat, có những điều kiện ràng buộc
giữa bầu gánh hát và nghệ sĩ.
Từ năm 1943 đến
năm 1954, Út Trà Ôn đã hát qua những gánh hát như Hề
Lập, gánh hát Thanh Long của bầu Tư Lung, gánh hát
Tiến Hóa của bầu Trúc Viên Trương Gia Kỳ
Sanh, gánh hát Mộng Vân của bầu gánh kiêm soạn
giả Mộng Vân và năm 1954, Út Trà Ôn đi gánh hát Thanh
Minh của bầu Nghĩa, chồng bà bầu Thơ, thân
mẫu của nữ nghệ sĩ Thanh Nga.
Trước năm 1954, vì
đang có cuộc chiến tranh Việt Pháp, đoàn hát không
có nhiều điểm diễn có an ninh nên thu nhập
của đoàn hát cũng bị hạn chế. Nghệ
sĩ danh ca Út Trà Ôn được ký contrat với bầu
Mộng Vân một số tiền 50.000 đồng trong hai
năm. Đây là số tiền contrat cao nhứt mà nghệ
sĩ nhận được trong thời điểm
đó.
Sau đình chiến Pháp
Việt năm 1954, ở Saigon và các tỉnh xây cất thêm
nhiều rạp hát lớn, khang trang, rộng rãi, nhiều
ghế cho khán giả nên các đoàn hát cải lương
hát đông khách. Nhiều đoàn hát mới thành lập
khiến cho có cảnh tranh giành bắt nghệ sĩ về
cho đoàn hát của mình. Nghệ sĩ Út Trà Ôn ký hợp
đồng hát cho gánh hát Thanh Minh Bầu Nghĩa với
số tiền contrat là 350.000 đồng trong hai năm,
lương 700 đồng một suất hát.
Đầu năm 1956, ông
rời đoàn hát Thanh Minh để cùng các nghệ sĩ
Kim Chưởng, Thúy Nga, Thanh Tao lập ra gánh hát Kim Thanh – Út
Trà Ôn, nghệ sĩ Út Trà Ôn phải bồi thường cho
ông bầu Nghĩa 700.000 đồng tiền contrat.
Năm 1958, đoàn hát Kim Thanh
giải tán, nghệ sĩ Út Trà Ôn trở về cộng tác
với đoàn hát Thanh Minh với số tiền contrat là
một triệu rưỡi trong hai năm, lương
mỗi suất hát là 1.500 đồng. Ngày chúa nhựt hay
ngày lễ, nếu đoàn hát hát hai suất, nghệ sĩ
Út Trà Ôn được lãnh 3.000 đồng. Nên nhớ là
thời đó một lượng vàng giá từ 2.800
đồng đến khoản 3.000 đồng.
Vua vọng cổ Út Trà Ôn.
Năm 1955, báo chí kịch
trường trưng cầu ý kiến khán giả,
độc giả, nghệ sĩ Út Trà Ôn được
tặng danh hiệu đệ nhất nam danh ca, ký giả
Nguyễn Ang Ca gọi là Vua vọng cổ Út Trà Ôn. Mỹ
hiệu Vua Vọng cổ Út Trà Ôn được người
trong giới nghệ sĩ, báo chí và khán giả dùng
để gọi Út Trà Ôn thay cho danh đệ nhất nam
danh ca Út Trà Ôn.
Nghệ sĩ Út Trà Ôn cũng
là người khởi đầu làm cho tiền ký contrat
của nghệ sĩ với bầu gánh hát tăng rất
cao. Contrat của Út Trà Ôn ký với bầu gánh hát Thanh Minh là
một triệu năm trăm ngàn đồng trong thập
niên 50, số lương một suất hát là 1.500
đồng. So với số lương của các giám
đốc, chủ sự, ông Cò mi, Thơ Ký của chánh
phủ thì đó là một số tiền thù lao nhận
được quá là cao. Mặc dù trong thập niên 60,
nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan ký contrat với Bầu
Long Kim Chung 3.500.000 đồng( ba triệu năm trăm
ngàn) và Thành Được ký contrat với bà bầu Thơ
Thanh Minh Thanh Nga cũng 3.500.000 đồng, nhưng phải
nói là nhờ nghệ sĩ Út Trà Ôn khởi đầu
thuận lợi, các nghệ sĩ đàn em mới được
hưởng theo những điều kiện cao như
vậy.
Từ năm 1954, khởi
đầu cuộc sống hòa bình sau chiến tranh Việt
Pháp, các gánh hát cải lương phát triển, mở
đầu cho một thời kỳ hoàng kim của nghệ
thuật sân khấu cải lương.
Đến ngày 30 tháng 4 năm
1975, miền Nam mất nước, nghệ sĩ và sân
khấu cải lương cũng bị tai họa chung
như cả đất nước. Lương mỗi
đêm hát của Út Trà Ôn ở đoàn cải lương
Saigon 1 chỉ còn 10 đồng( mười đồng)
một suất hát. Trước năm 1975, rạp hát
cải lương ở Saigon Chợ Lớn và Gia Định
có 27 rạp hát lớn. Sau năm 1975, hiện nay Saigon,
Chợ Lớn và Gia Định chỉ còn một rạp
hát duy nhứt là rạp hát Hưng Đạo. Nghe đâu nhà
nước định phá rạp Hưng Đạo
để xây rạp hát khác, như vậy có nghĩa là
sẽ không còn rạp hát dành cho cải lương, ít
nhứt trong năm năm nữa.
(Theo SG Nguyễn
Phương - Đài ACTD)
6/2009