Hoài niệm về ký giả Nguyễn Ang Ca
Thái Văn Kiểm
Tôi đã gặp Nguyễn Ang-Ca từ năm 1951, tính ra vừa đúng 40 năm, lúc tôi vào
Sài-Gòn, để chuẩn bị cùng đi Âu-Châu với Luật-Sư Trần Văn Tuyên, cựu Tổng Trưởng
Thông tin của Chính Phủ Quốc-Gia đầu tiên do Tướng Nguyễn Văn Xuân điều khiển.
Chính là Thủ-Tướng Trần Văn Hữu đã ký Nghị định, hồi tháng 6 năm 1951, cử chúng
tôi đi sang Paris tham dự lễ Kỷ-niệm 2.000 năm Thành Phố Ba-Lê (Bi-Millénaire de
Paris) đã được thành lập từ năm 51 trước Tây Lịch / rồi sau đó cùng đi Londres
để tham dự Đại-Hội Luân-Đôn (Great Festival of London), cứ 100 năm cử hành một
lần, với sự hướng dẫn rất chu đáo của ông Svvan, Lãnh Sự Anh-Quốc tại Sài-Gòn.
Trong cuộc gặp gỡ tại nhà ông Đinh Văn Khai - sáng lập nhật báo Tiếng Chuông,
ký-giả Ang-Ca đã tỏ ra rất bặt thiệp và gây được nhiều cảm tình với tôi là người
được Chánh Quyền trao trọng trách Thông Tin, Báo-Chí và Phát-Thanh tại miền
Trung. Qua những buổi mạn đàm, chúng tôi đã kết thân trong tình huynh-đệ và
cũng từ đó Ang-Ca gọi tôi là Anh Hai.
Hiền đệ Ang Ca sinh ngày 10 tháng 10 năm 1927 tại Bạc Liêu, Nam Việt. Tên thật
là Kim Cang. Ang-Ca tâm sự với tôi rằng thân-sinh rất mộ đạo Phật, nên mới đặt
cho tên Kim Cang, cũng gọi là Kim Cương, chữ phạn (sanscrit) là Vajra, chữ Pháp
dịch là Diamant, Foudre. Trong Nam gọi là Hột Xoàn. Chủ ý của thân sinh là để
con mình ghi nhớ trong tâm khảm Bộ Kinh Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật Kinh (Vajra
Prajna Paramita Sutra), gọi tắt là Kim Cang Kinh. Đã gọi là Kim Cang thì không
dao búa nào đập bể được cả. Với ý niệm đó, Kim Cang có bốn tính chất đặc-biệt
mà không có một chất nào khác bì kịp:
1
- kiên cố, không bị/hủy hoại, không sức nào phá được,
2
- quí báu, khó kiếm,
3
- có công dụng tiện lợi vì thâu nhận tối đa, có sực tự tại và giá trị tinh-túy
(valeur intrinsèque), đồng thời có sức công phá khi cần,
4 - có hình chất trong sạch nhất và ánh triệt (lumineux)
Còn lại chữ Prajna (Bát Nhã) có nghĩa là Trí huệ (Intelligence, Faculté de
perception) và chữ Paramita (Ba-La Mật) là Đại hạnh (Vertu cardinale) khả dĩ đưa
Người ta từ bến Mê qua tới bến Giác.
Ang-Ca cũng cho tôi biết: vì hoàn cảnh sớm mồ côi cha mà bao nhiêu việc trong
gia đình đã do từ mẫu đảm đang, nuôi dưỡng, hướng dẫn trên đường đời đầy chông
gai và cạm bẫy, với sự giúp đỡ của thân bằng quyến thuộc. Và cũng do hoàn cảnh
đặc biệt đó mà Ang-Ca đã sớm hun đúc tinh thần tự-túc, tự-lập, tự-do. Lại cũng
nhờ bẩm sinh 'tiên thiên hữu dứ, với thân thể tráng kiện và tinh thần sáng suốt,
và nhất là thấm nhuần đạo lý do song thân truyền lại, mà Ang-Ca đã tiến thân và
thành công tốt đẹp trên đường nghề-nghiệp.
Trên đường sự nghiệp, Ang-Ca đã ký với nhiều bút hiệu: Nhu Thắng Cang, Ngọc Kỳ
Lân, Ngọc Huyền Lan, v.v. kể từ khi bước vào Làng báo từ năm 1949. Ang-Ca đã
cộng tác với nhiều tờ báo ấn hành tại Sài-Gòn, như: Tiếng Chuông, Tiếng Dội,
Sài-Gòn Mới của Bà Bút Trà, Lẽ Sống, Dân Quyền của Trần Tấn Quốc, Dân Ta của
Nguyễn Vỹ, v.v.
Ang-Ca đã nổi danh qua những phóng sự thể thao, kịch trường, màn ảnh. Ngoài ra,
kể từ năm 1957, Ang-Ca đã chủ trương 2 tuần báo Duy Tân, Tầm Nguyên. Và cứ mỗi
năm, Ang-Ca xuất bản một số báo Xuân lấy tên «Xuân Dân Tộc Hòa Bình». Đầu năm
1964, Ang-Ca đứng ra làm Chủ nhiệm, kiêm Chủ bút báo Tin Sớm cho đến năm 1972
thì tự động đóng cửa để phản đối Luật Báo Chí 007, kềm hảm công luận và tự do
báo chí.
Ang-Ca là một ký giả xuất sắc với những phóng sự hấp dẫn, linh động được theo
dõi nhiều nhất trong nước và hải ngoại trong Cộng đồng Việt Kiều. Ang-Ca là ký
giả Việt Nam xuất ngoại nhiều nhất. Tôi còn nhớ, trong thời kỳ làm việc tại Bộ
Ngoại Giao, đã ký chiếu-khán xuất-ngoại công-vụ cho các anh Đinh Văn Ngọc, Võ
Văn Ứng và Nguyễn Ang Ca, đi tham dự các Thế-Vận-Hội và tranh giải Á-Châu Túc
Cầu và Bóng Bàn.
Riêng ký giả Nguyễn Ang-Ca đã tham dự bốn lần Thế-Vận-Hội (Jeux Olympiques) và
năm 1968 đã đoạt huy chương vàng Thế-Vận-Hội về Báo Chí Bình-Luận. Đến năm
1969, ký giả Ang Ca lại đoạt thêm huy chương vàng về giải phóng sự Thể Thao,
cũng tại Mexico, đem lại danh dự lớn cho quốc gia và giới báo chí Việt-Nam.
Cùng năm này, Ang-Ca được bầu Phó Chủ Tịch Ủy-Ban Ký-Giả Thể-Thao Quốc-Tế
(Vice-Président du Comité International des Grands Reporters Sportifs). Chính
trong thời kỳ này, ký giả Nguyễn Ang Ca đã có nhiều cơ hội kết-giao thân hữu với
rất nhiều ký giả và nhân-sĩ ngoại quốc.
Ký-giả Nguyễn Ang Ca còn kiêm thêm nghề soạn giả kịch tuồng (auteur dramatique)
với bút hiệu Ngọc Huyền Lan. Cùng với soạn giả Viễn Châu hợp soạn nhiều vở tuồng
cho sân khấu miền Nam như: Yêu Nữ Thần, Người Yêu của Hoàng Thượng, Thiên Thần
Trên Thiết Mã, Gió Cuốn Cành Hoa, Từ Sân Khấu đến Cuộc đời, Viên Ngọc Trắng
Thần, Con Gái Hoa Mộc Lan và nổi bật nhất là vở tuồng Hoa Mộc Lan, đã từng được
diễn và thâu hút nhiều khán giả nhất trên sân khấu Thanh-Minh Thanh-Nga.
Chính ký giả Ang-Ca đã cùng với ký giả lão thành Trần Tấn Quốc thành lập Giải
Thanh Tâm. Rồi cũng hai bạn tri âm đó đã có sáng kiến thành lập Hội Bảo Trợ Học
Sinh Nghèo, do Bà Vũ Bá Hùng làm Chủ Tịch và ký giả Ang-Ca làm Phó Chủ Tịch.
Trong mấy năm trời, Hội này đã hoạt động tích cực giúp đỡ những học sinh nghèo
khó, mà có chí hiếu học, với những học bổng và phương tiện nâng đở cho tới khi
tốt nghiệp và thành tài. Công tác tốt đẹp này đã bị chấm dứt bởi Cộng sản xâm
chiếm miền Nam, hồi tháng tư đen năm 1975.
Trong mọi hoạt động và công tác tốt đẹp kể trên, ký giả Ang-Ca đã được sự hổ trợ
của bà vợ hiền lành và đảm đang là nữ ký-giả kiêm thi-sĩ Huyền Nhi, luôn luôn
đem lại cho chồng những ý kiến xây dựng và một tình thương đằm thắm.
Trong thời kỳ Cộng sản chiếm đóng miền Nam, ký giả Nguyễn Ang-Ca và gia đình đã
phải trãi qua những năm tháng cực nhọc và buồn thảm với vận nước điêu tàn, bất
hạnh. Rốt cuộc, chịu không nổi, cả gia đình phải vượt biển vào cuối năm 1978.
Nổi trôi bình bồng trên sóng đại dương mấy ngày đêm sóng gió hải hùng, tưởng
chừng như sắp kết liễu cuộc đời với kình ngư cá mập, thì may thay nhờ gió thuận
mà cập được bến Hòn Rắn (Poulo Bi-Dong) của Mã Lai, cho tới tháng hai 1979 mới
định cư tại Belgique nhờ có con trai du học bảo lãnh.
Nơi xứ lạ quê người, gia đình Ang-Ca bắt đầu «trở lại hồn» rồi ổn định trong
tình thế mới. Ang Ca và Huyền Nhi lần lần bắt liên lạc với các thân hữu và các
tổ chức quốc gia ở hải ngoại. Rồi anh đi làm cho Hồng Thập Tự và các Tổ chức
Cứu Trợ Tị Nạn Đông Nam Á, lãnh đồng lương khiêm tốn, nhằm bảo đảm đời sống
thanh đạm cho gia đình. Đồng thời, Ang Ca viết báo trở lại, cũng hăng say như
thuở nào, vì trót đã mang cái nghiệp vào thân, thì đừng trách lẫn trời gần trời
xa như lời khuyên của thi-bá Nguyễn Du mấy trăm năm về trước.
Từ
đó, ký giả Ang-Ca cộng tác với rất nhiều báo chí Việt trên khắp thế giới, để bày
tỏ quan điểm và lập trường quốc-gia chống Cộng của mình. Thỉnh thoảng có đăng
những hồi-ký thời quốc nội, rất hấp dẫn và thành thật, và đó cũng là đức tính
của người quá cố thân thương. Lúc nào thiếu tài liệu, hoặc thắc mắc về điểm nào
thì Ang-Ca biên thơ, hoặc điện thoại cho tôi. Chúng tôi cho nhau tin tức thường
xuyên. Hồi này, chúng ta thấy nhan nhản trên báo chí hải ngoại những bút hiệu
rất mới là: Việt Hưng Quốc, Quách Tô Vương, Quách Tư Sinh và Hoàng Bích Vân.
Việc Ang-Ca dùng nhiều bút hiệu khác nhau là một dấu hiệu khiêm tốn, thêm vào
tánh tình hòa nhã, khiến cho sự giao tiếp trở nên bình dị và khả ái.
Trong lãnh vực nhân đạo và xã hội, ký giả Ang-Ca, từ khi thoát ra hải ngoại,
không ngớt tranh đấu cho người tị nạn, cho gia đình những ký-giả, những nhà thể
thao, còn kẹt lại Việt-Nam. Được bầu làm Phó Chủ Tịch Văn-Bút Việt-Nam
Hải-Ngoại tại Paris và tại Bruxelles, ký-giả Ang-Ca là một trong những sáng lập
viên Chùa Linh Sơn ở Bruxelles, đồng thời là Tổng Thư Ký Hội Cao Trung Niên tại
thủ đô nước Bỉ.
Tôi còn nhớ năm 1977, khi tôi sang Canada tham dự Đại-Hội Văn-Học Pháp-ngữ của
Đại-Học Sherbrooke, lúc trở về ghé lại Montreal để thuyết trình đề tài «Đàn Chim
Việt» ở Đại-Học Kỹ-Thuật tỉnh Quebec, thì tình cờ gặp lại chủ-nhiệm Đinh Văn
Khai và Ông Nguyễn Thành Lễ. Cả hai ông bạn đều nhắc đến ký giả Nguyễn Ang Ca,
tò tình thương nhớ và sự lo lắng cho số phận hiền-đệ Ang-Ca và Huyền-Nhi còn
đang kẹt lại Sài-Gòn, không rõ sinh sống ra sao?
Ngày 23-4-1988, lần đầu tiên Ang-Ca viết thơ báo tin bị «crise cardiaque» : «từ
ba năm nay em bị bịnh tim, nên BS cấm đánh máy và viết nhiều, nhưng anh chị
nghĩ: kiếp tằm chỉ có chết mới hết nhã tơ! Thơ anh chị làm em cảm động vô
cùng. Trong nghề nghiệp, em kính yêu nhất là anh Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Vỹ và
... Anh. Được tin Bà Năm Sađec mới qua đời ở Sài-Gòn. Bà Năm là vợ anh Vương
Hồng Sển. Anh có biết nhiều về mối tình của Anh V H Sển với người nữ nghệ sĩ
tiền phong này không?
Bà Lý Công Trinh với chúng em là chổ thân tình. Lời đề tựa của Anh đã giúp
phần nào quyển Le Mirage de la Paix được giải thưởng cao quí, làm hãnh diện Cộng
đồng Người Việt Tự Do.»
Cũng trong bức thơ này, nơi đoạn cuối, Ang Ca đã giới thiệu nữ-sĩ Huỳnh Dung ở
Genève (Kershatz), để nhờ tôi đề tựa bản dịch Pháp-ngữ quyển truyện «Thiên đàn
của Thy (Le Paradis de Thy) do Bác-sĩ Trần Quang Đệ đảm trách, một bản dịch
trung-thành, văn hoa và lưu loát. Và tôi đã tìm được giáo-sư Bernard Le
Calloch, Cố Vấn Văn-Hóa và Pháp-Luật cho Thượng-Nghị-Sĩ André Le Jarrot, để viết
đề tựa cho quyển sách của nữ-sĩ Huỳnh Dung.
Ngày 20 tháng 1 năm 1989, Ang-Ca viết cho chúng tôi một lá thơ thương khóc
nữ-sĩ Lý Thu Hồ, tác giả quyển «Le Mirage de la Paix» (Ảo ảnh Hòa Bình), đã đoạt
giải Nhất Văn Chương 1987 của Hội Nhà Văn Pháp-Ngữ (Association des Ecrivains
de Langue Francaise, ADELF). Lời trong thơ như sau:
«Thưa
Anh Chị: Em rất xúc động khi hay tin Bà Lý Thu Hồ đã qui tiên. Bà bị bịnh gì?
Đau lâu mau rồi? ông Lý Công Trinh, chồng của Bà, còn ở ngôi nhà cũ không?' Em
định sẽ khóc nhớ Bà bằng một bài thương tiếc. Xin anh cho em chi tiết, những gì
mà anh biết về Bà, tiểu sử, sự nghiệp. Cơ duyên nào mà Anh quen Bà và dịp nào
Anh đã viết tựa cho quyển «Le Mirage de la Paix'». Anh cho em xin photocopies
các thơ khen ngợi Bà của Thủ Tướng kiêm Thị trưởng Paris là ông Jacques Chirac,
của Quận Vương Đan-Mạch ở Copehhague (Henrik De Montpezat), của Hoàng-Hậu
Fabiola của Vương-Quốc Bỉ, v.v.
Liền sau đó, tôi đã cung cấp đầy đủ tài liệu cho nghĩa-đệ. Nguyễn Ang Ca, để
viết về nữ-sĩ Lý Thu Hồ, qui tiên ngày 8 tháng Janvier 1989, hưởng thọ 73 tuổi.
Sinh tiền Bà là người rất mến phục ký giả Nguyễn Ang Ca. Nay cả hai người đều
về bên kia thế giới, thoát xa trần tục, để lại người thương luống ngậm ngùi!!
Ngày 12 tháng 5, 1989, Ang-Ca viết thơ giới thiệu ông bạn Võ Phước Lộc, thi-sĩ
Việt và Pháp, nguyên Chủ nhiệm nhà Xuất bản Lữa Thiêng ở Sài-Gòn, trước 1975.
Đồng thời Ang-Ca cho biết mới về Rennes thăm Anh cả Trần Văn Ân, bút hiệu Văn
Lang, đã được Anh Cả truyền dạy thuyết vô cầu để tạo cho mình một nếp sống an
vui với tình thương và đạo lý. Hồi đó Anh Cả đã 88 tuổi, năm nay đúng 90, mà vẫn
còn minh mẫn, mặc dầu sức khỏe có phần suy giảm. Ang-Ca cũng cho biết ký giả
lão thành Nguyễn Hữu Lượng mới mất ở Sài-Gòn, cũng như đại Tướng Nguyễn Văn
Xuân, cựu Thủ Tướng Việt-Nam, đã qua đời ở Nice, hưởng thọ 97 tuổi, cùng mất một
lượt với nữ-sĩ Lý Thu Hồ.
Trong thơ trả lời (1/6/89), tôi có cho Ang-Ca biết: Anh Cả Văn Lang cũng thường
hay thơ từ qua lại với chúng tôi, kể từ khi ông ta còn làm Chủ nhiệm tập san
Đời Mới ở Sài-Gòn, mà tôi cũng có cộng tác. Thuyết vô cầu của Văn Lang Tiên sinh
rút từ cả hai đạo Lão và Phật, đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm thu gọn trong hai câu:
Lòng vô sự như trăng in nước,
Của thảng lai như gió thổi hoa!
Vào cuối năm ấy, trời Tây đang chuyển từ thu sang đông, lá vàng rơi rụng khắp
đường phố Ba-Lê thì vừa nhận được lá thơ viết ngày 12/10/89 của Ang-Ca cho biết:
«Vợ chồng em vừa đi Marseille, đáp lời mời của anh chị An Khê, để viếng Foire
Internationale de Marseille. Qua Pháp hay tin anh Nguyễn Kiêng Giang qua đời,
chúng em có vào Chùa Khánh Anh cầu siêu cho ảnh. Anh Võ Phước Lộc-tức Võ Đức
Trung - có gởi cho em xem bức thơ của Anh, khích lệ ảnh. Đối với một người có
tâm hồn và lý tưởng như Anh Lộc, bức thơ của anh quả là một món quà tinh thần...
Theo em nghĩ, Anh Chị đã có một đứa em Văn Nghệ xứng đáng rồi vậy.'»
Thế rồi, năm hết Tết tới, tuyết phủ đầy đồng, Ang-Ca lại viết thơ ngày 12/1/90,
để báo tin người bạn quí Nguyễn Long, tự Thành Nam, mới qua đời bên Hoa Kỳ. Anh
Nguyễn Long là chủ nhiệm Đuốc Từ Bí, cũng là lãnh tụ Phật Giáo Hòa Hảo, Đãng Dân
Xã, có nhiều uy tín. Ang Ca viết: «mỗi lần nghe hung tín, chứng bịnh đau tim
của em lại hành hạ, dù cố nén không cho xúc động mạnh. Chẳng hay Anh Chị sức
khoẻ tốt? Em lại vừa hay tin chị Nguyễn Xuân Nhẫn từ trần. Anh chị có quen
biết anh chị Nhẫn hay không? Anh này cũng mê nghề viết, thích thơ văn lắm. Ảnh
từng đoạt giải truyện ngắn ở báo Tiếng Chuông. Ở Anh Quốc, nữ nghệ sĩ Thanh
Tùng, cô đào đẹp nhất của sân khấu Cải Lương 2 thập niên 1935-1955, không bệnh
mà chết (bể ống tim). Anh có sáng tác bài nào dịp Xuân này, hay viết vềVăn Hóa,
thì gởi cho em xem với.»
Thơ của Ang-Ca khiến tôi nhớ lại thời kỳ, đáp lời mời của Chủ nhiệm Đinh Văn
Khai, tôi đã tham dự nhiều lần Ban Chấm Thi Truyện Ngắn Tiếng Chuông, cùng với
các nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát, luật-sư Nguyễn Văn Lộc (sau này làm Thủ
Tướng), thẩm phán kiêm văn-sĩ Tuần-Lý Huỳnh Khắc Dụng, v.v. Tôi còn nhớ hồi đó,
không nhớ năm nào, nhà văn-thơ Hàm-Thạch Nguyễn Xuân Nhẫn (hiện ở Paris) đã đoạt
Giải Truyện Ngắn Tiếng Chuông với một bài nói về Thân phận một Vú già, bị phú
gia bốc lột!
Tôi cũng cho Ang Ca biết là chúng tôi quen thân cả hai ông bà Nguyễn Xuân Nhẫn
và riêng tôi có viết thơ phê bình và khen ngợi Tập thơ «Mặt Nước Hồ Xuân» của nữ
sĩ Thanh Liên, người bạn đời của thi-sĩ Hàm Thạch.
Đầu tháng 2, ngày 5, 1990, Ang Ca lại viết thơ hỏi địa chỉ của ca-sĩ Họa Mi, mới
ra đi tìm tự do nơi đất Pháp. Thấm thoát thoi đưa đã đến tháng 10, tôi lại nhận
được thơ của Ang Ca, báo tin vui, «đã bán được quyển sách cho Đại Nam bên Hoa
Kỳ, tên sách là Giá Tự Do hay là Lệ Tràn Biển Đông, có được đủ số tiền mua 2
vé phi cơ khứ hồi, để đi Mỹ thăm bạn bè. Vì em bị đau tim, vợ em sợ em bị chết
thình lình, nên có cơ hội, là đi thăm ... cứ nhận ngay. Khi sách in xong, xin
gởi đến Anh chị ngay. Nếu được Anh nhận dịch ra Pháp ngữ thì hân hạnh cho em vô
cùng. Nếu có thể, Anh cho em đôi hàng viết về con người của ký-giả Nguyễn Ang
Ca, để em được in ở bìa sau quyển sách, cùng với lão huynh Trần Văn Ân, cố
văn-sĩ Bình Nguyên Lộc, anh Vũ Ký... Em lại mới được tin ông Lý Công Trinh đã
qua đời. Buồn quá anh chị ơi!' Rất tiếc kỳ rồi, Anh sang Liège dự Đại-Hội
Thi-Ca Quốc-Tế mà tụi em không mời được Anh về nhà để hàn huyên, tâm sự...»
Giữa tháng 11, 1990, chúng tôi có sang nước Bỉ thăm vợ chồng Ang-Ca và Huyền
Nhi, ở nhà số 32 Antoine Labarre, Bruxelles 1050, cùng với một số nhân sĩ từ Hoa
Kỳ và Pháp sang hợp Hội-Thảo Việt-Nam tại Đại-Học Tự-Do Bruxelles. Nhìn thấy
Ang Ca vẫn tráng kiện và vui vẻ, chúng tôi an tâm, nhưng vẫn cầu nguyện thầm
Trời Phật phò hộ cho Ang Ca tai qua nạn khỏi.
Về
Paris ít lâu sau, thì tôi nhận được thơ viết ngày 11/1/91, Ang-Ca xin tài liệu
về đảo Phú Quốc và cuộc vượt biển ngày xưa của Chúa Nguyễn Ánh. Tôi liền sưu
tập khá nhiều tài liệu gởi sang Bỉ cho Ang-Ca tham khảo mà viết bài. Tôi không
rõ Ang Ca đã viết chưa, và nếu đã viết thì đăng báo nào?
Đầu tháng 2, tôi nhận được lá thơ viết ngày 4/2/91, báo tin như sau: «Kính
Anh Chị Hai - Em bị crise tim, vào bệnh viện từ 24/1/91. Sau khi làm examen đủ
thứ, có cả soi indoscopie, thọc tuyau vào ngực để thăm dò và làm échographie.
Nhưng chưa biết sẽ bị opération hay không. Anh Hai có bài, tài liệu gì về Vua
Quang Trung Nguyễn Huệ, xin gởi cho em xem, để em có tài liệu, thuyết trình sau
khi mạnh. ....... Sau 8 giờ tối, nếu anh Hai có rảnh, phone vào viện cho em, số
764.0628. Nếu như em bị đổi phòng, anh hỏi Standard, Nguyễn Kim Cang nằm lit
628-B, đổi vô phòng nào, lit số mấy?...Xin anh Hai cho em hay tin sốt dẻo với
nhe. Kính thăm Anh Chị Hai và quí quyến luôn an lành. Thân quý: Nguyễn Ang Ca,
4/2/1991 »
Nhận được thơ này, tôi không ngờ là thơ cuối cùng, thơ vĩnh biệt của nghĩa đệ
Nguyễn Ang Ca! Chiều theo ý muốn, tôi đã sắp xếp các tài liệu để gởi sang và
tôi cũng đã điện đàm nhiều lần. Lần chót, trong đêm 25/3, tôi nghe tiếng nói
Ang-Ca hơi yếu, thoi thóp như con chim bị đạn của Thầy Tăng Tử. Rồi Ang-Ca bảo
tôi đọc lại hai câu thơ của Ôn Đình Quân mà sinh tiền Ang-Ca rất ưa thích:
Tam xuân nguyệt chiếu thiên sơn lộ,
Thập nhật khai hoa nhất dạ phong!
mà Vũ Tùng Chi đã khéo dịch:
Một đêm gió lộng hoa tơi tả,
Ba
tiết trăng soi núi chập chùng!
Phải chăng đây là một cái điềm báo trước Ang-Ca sẽ ra đi vĩnh viễn?
Quả thế, trong đêm sau thì điện thoại nhà tôi reo. Tôi lấy máy nghe thì, than
ôi! ông bạn Đỗ Việt báo tin không lành: Ký-giả Nguyễn Ang Ca đã qua đời, lúc 3
giờ chiều ngày 26 tháng 3 năm 1991, nhằm ngày 11 tháng 2 âm lịch, Tân Mùi, tại
Bruxelles, hưởng thọ 65 tuổi.
Thế là một người tài hoa của nước Việt, một hiện hữu trong Làng Văn, Làng Báo và
Kịch Trường, một nghĩa đệ trong Gia-đình, đã vĩnh viễn ra đi nơi xứ lạ quê
người, đem theo niềm thương tiếc vô biên của biết bao thân bằng quyến thuộc, của
đồng bào mọi giới từ Hải Ngoại về tới Quê Hương.
Và
cũng từ đây, hai chữ KIM CANG sáng chói, sẽ được ghi vào tâm khảm của Cộng đồng
Người Việt Quốc Gia:
Xác tục ngàn măm lưu Hải Ngoại,
Hồn thiêng vạn dặm gởi Quê Hương!
Paris (Chiêu Anh Các), 2 Mai 1991
Hương Giang Thái Văn Kiểm.